Dương Thắng
“Trăm năm tính cuộc vuông tròn
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông".
(Truyện Kiều)
1. Dưới cái tên “Trăm năm tính cuộc vuông tròn”, triển lãm mới đây của nghệ sĩ thị giác Doãn Hoàng Kiên đặt người xem vào một tình thế vừa hiển nhiên vừa bấp bênh: ai cũng nhận thấy “vuông” và “tròn” là những dạng thức cơ bản của thế giới khả thị (hình học sơ đẳng, ký hiệu tối giản, mô-típ trang trí), nhưng càng đi sâu vào không gian trưng bày của triển lãm, những cái “vuông–tròn” này lại biến thành một vấn đề hơn là một hình dạng. Ở đây, nó không còn chỉ là đối tượng của thị giác; nó còn là luật chơi, là nghi thức, là một cách “tính” (tính toán / tính sổ) để đo đạc khoảng cách giữa hỗn độn và trật tự, giữa ngẫu nhiên và tất yếu, giữa vết tích cá nhân và bộ mã chung mà cộng đồng có thể đọc được. Từ một trong những đối tượng khả thị khá quen thuộc, “vuông-tròn” của Doãn Hoàng Kiên nhanh chóng trở thành một lời thách đố khi chúng ta muốn đưa nó nhập vào cõi của những thứ “khả niệm”.
2. Trong tiếng Việt, “vuông tròn” là một thành ngữ: câu thơ “Trăm năm tính cuộc vuông tròn” được thể hiện như một nỗ lực “tính toán” làm sao cho mọi thứ được “trọn vẹn”, “êm đẹp”, “đâu vào đấy”. Nhưng đi xa hơn thế, Nguyễn Du lại muốn rằng chúng ta “Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông". Tôi (võ) đoán rằng đó chính là điểm khởi đầu cho hành trình sáng tác này của Kiên. Giống như việc các hạt cơ bản đã tạo ra thế giới vật chất, Doãn Hoàng Kiên tin rằng vuông và tròn là hai thứ “hạt cơ bản” tạo ra cái thế giới thị giác của chúng ta, vì thế để có thể “dò cho đến ngọn nguồn lạch sông", Doãn Hoàng Kiên đã kéo những hình vuông và hình tròn ấy trở về những vị trí “ban đầu” mà xuất phát từ đó chúng đã thâm nhập vào thế giới thị giác của chúng ta. Các hình vuông được đưa về dạng “khung/ ô” còn các hình tròn hiện ra như như những cái hồng tâm/ đích ngắm / chu kỳ xoay vòng và lặp lại. Cái độc đáo trong tác phẩm của Doãn Hoàng Kiên nằm ở chỗ: trong một chuỗi tác phẩm, hai dạng hình học này không hòa giải với nhau theo kiểu cổ điển mà tạo ra một độ căng cứng nhất định. “Vuông” – với tính phân chia, kiểm kê, giam giữ (ô lưới, bảng biểu, mặt phẳng được cắt thành các ô); “tròn” – với tính lặp lại, xoay vòng, ám ảnh, dẫn dắt chúng ta về với các nghi lễ (vòng tròn như đồng xu, con dấu, mắt nhìn, bia ngắm, quỹ đạo). “Vuông” có vẻ đòi một trật tự lý tính; “tròn” gợi nhớ tới một trật tự khác: trật tự của nhịp, của chu kỳ, của ám thị.
3. Và bởi vậy, “tính cuộc vuông tròn” đã không còn là phép toán cộng trừ đơn giản, mà đã trở thành một kiểu hạch toán/ kiểm toán: tác phẩm như một bảng kế toán của những dấu vết, nơi mỗi vòng tròn được đặt ra như một “mục”, một “tâm điểm”, một “con dấu” kiểm tra; còn mỗi ô vuông là nơi mọi thứ bị buộc phải “đứng tên”, phải chịu trách nhiệm về vị trí của mình. “Trăm năm” ở đây không nhất thiết là một lịch sử tuyến tính; nó gợi một khoảng thời gian đủ dài để mọi sự kiện trở thành "vết" và mọi vết trở thành "ký hiệu".
4. Những nỗ lực khám phá các tác phẩm hiện diện ở triển lãm “Trăm năm tính cuộc vuông tròn” nói riêng và các tác phẩm hội họa nói chung luôn quy về cùng một vấn đề: nhận diện và xác định các mối quan hệ giữa cái “khả thị” và cái “khả niệm”, chúng kể lại (nếu chúng ta chấp nhận coi một bài phân tích hội họa như một câu chuyện) một cuộc gặp gỡ giữa các đối tượng của hội họa và một lý thuyết – lý thuyết Ký hiệu học tạo hình (sémiotique plastique), một ngành nghiên cứu non trẻ mới ra đời. Việc áp dụng Ký hiệu học tạo hình để giải mã tranh của Doãn Hoàng Kiên sẽ là một lựa chọn đúng đắn bởi những lý do mà người viết sẽ nêu ra ở phân đoạn 6 ngay tiếp sau đây. Cần nhấn mạnh rằng Ký hiệu học tạo hình trước hết từ chối sự đánh đồng hay lẫn lộn giữa cái khả thị và cái khả ngôn. Mục tiêu của Ký hiệu học tạo hình cũng là để “hiểu” các điều kiện sản sinh cũng như là tính ý hướng (intentionalité) của mối quan hệ giữa cái biểu đạt (bằng thị giác) và cái được biểu đạt. Mục tiêu ấy cũng hàm ý từ chối việc thay thế các đối tượng “nghĩa” được biểu hiện nhờ vào “trò chơi” của hình dạng, sắc màu, bố cục bằng một sự “từ vựng hóa” chỉ dựa trên phẩm chất hay chiều kích “hình tượng” của chúng.
5. Chính nhờ mối bận tâm đi theo lôgic riêng của mình mà Ký hiệu học tạo hình mới có thể khiến người ta quan tâm, và có thể tham dự một cách thực chất vào bất kỳ công cuộc nghiên cứu liên ngành nào. Chẳng hạn, đối với một nhà Ký hiệu học tạo hình, hình ảnh sẽ được tiếp cận như một văn bản cụ thể đang “hiện ra” trong một tình huống xác định (texte-occurrence), kết quả của một quá trình sản sinh nghĩa phức tạp, trong đó các chặng cơ bản, xét về đại thể, không khác gì những chặng của quá trình tạo sinh của bất kỳ văn bản nào khác, dù là “văn bản” ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ. Và bản thân tính tượng hình (iconicité) rốt cuộc sẽ được định nghĩa như là sự sản sinh một hiệu ứng về nghĩa của “tính hiện thực”, một hiệu ứng đặc trưng cho một dạng diễn ngôn nhất định biết khai thác các hàm nghĩa xã hội cũng như quan niệm của xã hội về các dạng thức khác nhau của ngôn ngữ trong mối quan hệ tương ứng của chúng với “thực tại”.
6. Điểm nổi bật nhất trong loạt tác phẩm có mặt trong triển lãm “Trăm năm tính cuộc vuông tròn” là một hệ ký hiệu cố tình được đặt ở ngưỡng “sắp đọc được nhưng không đọc được”. Ta thấy các dấu cộng/trừ, các vạch ngang/dọc, những mô-típ tròn đặc - tròn rỗng - tròn chia đôi, những chấm nhỏ xếp hàng như chuỗi mã. Có lúc, nó gợi nhớ tới bảng điều khiển của một cỗ máy, gợi tới dãy công thức toán học, gợi nhớ tới một thứ ngôn ngữ kỹ thuật; có lúc nó lại giống ký hiệu bùa chú, giống những cái “ấn” của một nghi lễ tôn giáo hay của các thầy phù thủy. Chính vùng mơ hồ này khiến tác phẩm vận hành như một ngôn ngữ không-đặt-tên: người xem không thể giải mã theo kiểu “dịch nghĩa” (vì không có từ vựng cố định), nhưng lại cũng không thể chỉ xem như vật trang trí tùy tiện (vì chúng dường như có một cấu trúc quá nghiêm ngặt và tuân thủ một quy luật nào đó).
7. Đây là một nghịch lý được họa sĩ chủ ý tạo ra: các bức tranh của Doãn Hoàng Kiên là một hệ ký hiệu vừa đòi hỏi chúng ta đọc nó vừa từ chối cung cấp cho chúng ta những giải nghĩa. Nó ép người xem phải chuyển từ “đọc nội dung” sang “đọc thao tác”: đọc cách dấu vết xuất hiện, cách chúng được xếp đặt, cách các mảng trống được tổ chức như những khoảng im lặng. Người xem bắt đầu nhận ra rằng cái quan trọng không phải ký hiệu "nói gì", mà là ký hiệu đang "làm gì": nó chia mặt phẳng, nó tạo nhịp, nó đánh dấu, nó kiểm soát, nó mở đường, nó chặn đường....
8. Mỗi bức tranh trong cuộc triển lãm này có thể xem là một “văn bản” được tạo ra từ những “chữ viết của hành động”. Nét cào, nét kéo, vệt loang, những lớp phủ xám đen… làm lộ một thứ thời gian vật chất: thời gian của cọ, của chà xát, của bồi đắp rồi xóa. Ký hiệu vì vậy không phải là hình minh họa; nó là dấu chỉ của lao động. Cảm giác về những cái “bảng” này – như bảng lớp học, bảng công thức, bảng ghi – xuất hiện không chỉ vì có đường kẻ, mà vì đã có một lịch sử của việc ghi - xóa - ghi lại. Nếu chỉ có thuần túy các ký hiệu, tranh có nguy cơ trở thành một sản phẩm “đồ họa đẹp”. Nhưng Doãn Hoàng Kiên cố tình không để bề mặt tranh của mình ở dạng “bóng bẩy” hay “mới mẻ”. Tranh của anh thường cũ, sần, ta cảm tưởng dường như chúng bị thời gian bào đi. Nét cào, vệt quét, lớp chồng lớp, chỗ dày chỗ mỏng, chỗ như vừa bị xóa. Vì thế, người ta có cảm giác mỗi bức tranh là một tấm bảng của những ký ức đã từng được viết lên, đã từng sửa, đã từng bị phủ đi rồi lại viết lại.
9. Trong không gian trưng bày của triển lãm “trăm năm tính cuộc vuông tròn”, các vòng tròn không chỉ nằm trên tranh. Chúng còn xuất hiện như một mô-típ tràn lan ra cột, tường, sàn cũng như trong luồng ánh sáng chiếu hắt trên trần. Khi mô-típ ấy được lặp lại đậm đặc như vậy, người xem dường không còn đứng trước “những bức tranh”.... bước vào không gian của triển lãm như đang bước vào một không gian đậm chất nghi lễ: nghi lễ của sự lặp lại, của việc liên tục “nhắc nhở” về thế giới bằng các vòng tròn.
10. Theo cảm nhận của cá nhân người viết bài, từng bức tranh của Doãn Hoàng Kiên khi đứng độc lập đều rất đẹp. Nhưng để có thể hiểu sâu sắc về ý nghĩa của cuộc triển lãm “Trăm năm tính cuộc vuông tròn này” chúng ta phải xem xét toàn bộ dự án sáng tác này trong tổng thể của nó, một dự án được tổ chức như một hệ thống có cấu trúc nghiêm ngặt: danh mục bày tranh theo nhánh, sơ đồ tiến hóa của các mô-típ, ngay cái thao tác “vẽ tranh theo từng series” của Kiên đã là một diễn ngôn Ký hiệu học tạo hình, điều đó thể hiện ở việc các biểu nghĩa không nằm trọn vẹn trong từng bức tranh đơn mà nằm trong mối quan hệ lặp lại và biến thiên từ hình này sang hình khác (trong cùng một series) và biến thiên từ series tranh này sang các series tranh khác. Nói một cách khác, ở Doãn Hoàng Kiên, hội họa không “kể chuyện” theo những cách chúng ta thường thấy, nó thiết kế ra bộ “ký hiệu tạo hình” rồi bộ ký hiệu đó tự vận hành thông qua các hoán vị và chuyển trí.
11. Nhìn xuyên suốt qua các series tranh trong triển lãm của Doãn Hoàng Kiên chúng ta gặp một hệ thống “từ vựng hình học” rất ổn định: 1/ Các ô vuông/ lưới (yếu tố khả thị) điều hướng chúng ta tới những “tính toán, phân ô, các bảng tính” (yếu tố khả niệm); 2/ Các vòng tròn, vòng đồng tâm, vòng chia múi (yếu tố khả thị) sẽ gợi ý cho chúng ta để nghĩ về với những khái niệm như chu kỳ, trường lực hay thiên văn; 3/ Các chấm/điểm hay các hạt màu sẽ tạo ra mối liên hệ với các yếu tố khả niệm như một "đơn vị" sự kiện kiểu như một mầm sinh, một hạt cơ bản hay lượng tử thời gian; 4/ Những vệt bút lớn, vẽ mạnh mẽ, nhòe, loang như những chỉ dấu gắn với những biến động bất trắc, những nhiễu động làm rung chuyển hệ thống; 5/ Các toán tử “+”/”-“/”=”/”X” không còn là các ký hiệu toán học mà là “các động từ thị giác” liên quan đến hành động: thêm vào, bớt đi, chuyển hóa ngang bằng hay bị triệt tiêu, loại bỏ. Có thể thấy chúng mang đậm ý nghĩa của hành vi hơn là trạng thái hay cấu trúc (tĩnh tại).
12. Hệ thống tên gọi tác phẩm trong triển lãm “Trăm năm tính cuộc vuông tròn” cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc khám phá và giải mã các tác phẩm của Doãn Hoàng Kiên. Nếu chỉ xem tranh, chúng ta có thể nhầm lẫn đây là những trừu tượng hình học, nhưng nếu đọc tên tác phẩm, nhất là “cây phả hệ” danh mục tác phẩm chúng ta sẽ thấy họa sĩ đã “neo nghĩa” bằng những tựa đề rất rõ ràng và hệ thống tác phẩm được cấu trúc rất chặt chẽ, khoa học và lý tính: 1/ “Sắc-Không” cặp khái niệm như một gợi ý cho phép người xem đọc ra các thuộc tính đặc/ rỗng; hữu/ vô hữu; hiện/ ẩn trong các cấu trúc vòng tròn hay nền sần; 2/ “Ngũ sắc” và các biến thể sẽ đưa hệ hình học vào với vũ trụ quan ngũ hành giống như nhà huyền học Lê Đại đã viết: “Màu sắc là cái ánh và cái bóng của Hỏa - Thủy - Thổ - Khí trong chân không khi được Quang soi rọi” (Trăm năm tính cuộc vuông tròn, tr. 135); 3/ Còn trong các tác phẩm có tên gắn với chữ Thủy (Thủy Trung Khí, Thủy Trung Thổ…) các vòng tròn lại gợi cho người xem các quỹ đạo chuyển hóa và những “nhiễu động" trên bề mặt để hình thành các “dòng khí” thậm chí là các cơn bão tố. Trên bình diện ký hiệu học, Doãn Hoàng Kiên đã tự tạo ra cho riêng mình một hệ thống ký hiệu tạo hình nghệ thuật rồi dùng các tựa đề của các bức tranh để dẫn dắt những yếu tố “khả thị” này về các yếu tố “khả niệm” gắn với Huyền học Phương Đông. Đây là một thực hành nghệ thuật rất sáng tạo, tuy nhiên ở đây cũng cần đưa ra một lời cảnh báo với người xem rằng tên đặt cho tác phẩm chỉ luôn là một lời gợi ý về một cách “mở nghĩa” và người xem hoàn toàn có quyền tiếp cận và giải mã tác phẩm theo cách riêng khác của mình.
13. Cái hay ở đây là việc họa sĩ Doãn Hoàng Kiên không bắt chúng ta phải hiểu tường tận “ý nghĩa” chứa đựng từng tác phẩm của anh. Anh chỉ cần người xem rơi vào trạng thái: muốn hiểu, muốn ghép, muốn đoán, muốn tìm quy luật. Một bức tranh trở thành một câu đố có sức hút kỳ lạ: gần như đọc được mà lại không thể đọc xong. Triển lãm “Trăm năm tính cuộc vuông tròn” cho thấy Doãn Hoàng Kiên không vẽ thế giới mà anh vẽ cái cách mà thế giới này đã được tổ chức như thế nào: lưới để “tính”, vòng để quay, chấm để đếm và vệt nhòe để làm sai lệch đi mọi toan tính… "Trăm năm tính cuộc vuông tròn” vì thế không phải lời mời vào một thế giới yên ổn (mà thế giới thực cũng có yên ổn bao giờ đâu!). Nó giống một câu hỏi treo lơ lửng từ lâu trên đầu mỗi chúng ta: trong đời này làm sao lại có thể “vuông tròn” trọn vẹn khi mà mọi thứ đều phải kiểm kê, phải đóng dấu, phải lặp lại? Và nếu trọn vẹn không phải đích đến, thì nó sẽ là cái gì – một nhịp đi, một động tác quay về, một vòng tròn cứ được vẽ lại mãi trên mặt phẳng đã cũ? Rời khỏi phòng tranh, người xem có thể không “giải mã” hoàn toàn được tác phẩm. Nhưng có một thứ đọng lại rất rõ: cảm giác mình vừa bước qua một cuộc chơi vừa nghiêm trang vừa mang tới những thách đố kỳ thú.
---------------
Tài liệu tham khảo
(1) Doãn Hoàng Kiên. Trăm năm tính cuộc vuông tròn. NXB Mỹ Thuật, Hà Nội, 2025
(2) Jean-Marie Floch. Petites Mythologies de l'oeil et de l'esprit. Pour une semiotique plastique. Éditions Hades - John Benjamins Publishing Company, Paris, 2010.
(3) Félix Thürlemann. Paul Klee: Analyse sémiotique de trois peintures. Éditions L’Âge d’Homme, Paris, 2020.





