Truyện Phạm Đình Trọng
MƯỜI TÁM
Bà Đằm và Mạnh trên toa ghế ngồi trong chuyến xe lửa Bắc - Nam thời đường sắt xuyên Việt mới khôi phục sau chiến tranh. Những toa tàu xám xịt, cổ lỗ, rệu rã, đủ chủng loại: toa khách ghế gỗ ngang, toa khách ghế gỗ dọc, toa chở hàng trên sàn còn lớp vụn phân bón phốt phát, toa nào cũng đều lèn chặt người. Người chen chúc hai đầu toa. Người đánh đu ở bậc lên xuống. Người ngồi vắt vẻo trên nóc toa. Đoàn tàu ỳ ạch bò trên cua đường sắt lượn sát biển. Mặt trời vừa lên khỏi biển. Những tia nắng lấp lánh xuyên qua mây, dát bạc trên ngọn sóng.
Đoàn tàu chầm chậm vào ga lẻ giữa cánh đồng. Sân ga nhỏ bé, im lìm, đầy rác rưởi bỗng trở thành phiên chợ trời nhốn nháo, huyên náo. Người bán hàng vắt hàng hóa trên vai, cầm trên tay, đựng trong thúng, bày trên mẹt vội vã đi quanh những toa tàu. Bánh mì. Cơm nắm, Thit kho. Trứng vịt luộc. Trái cây. Quần áo. Võng lưới. Dép Thái Lan... Cả những thùng nước giếng cũng được đưa đến sát cửa sổ toa tàu, trút ra chậu thau nhựa bán cho khách đi tàu rửa mặt. Chỉ những người đứng ở đầu toa mới xuống ga mua hàng và đi lại vận động đôi chân. Những khách đã có được chỗ ngồi trong toa tàu không dám xuống ga vừa sợ mất chỗ, vừa không len ra ngoài được đành nhô bộ mặt phờ phạc ra khỏi ô cửa sổ toa tàu đưa tay vẫy người bán hàng. Bà Đằm và Mạnh vẻ mặt nhẫn nhịn, cam chịu và thờ ơ, không mua bán gì, cũng không quan tâm đến phiên chợ xô bồ, nhốn nháo ngoài toa tàu.
Mặt trời gác núi phía Tây. Trong hoàng hôn đìu hiu, đoàn tàu vật vã trên hai làn đường sắt chênh vênh vắt qua những triền đồi loang lổ hố bom, tênh hênh những ngôi nhà không mái, nham nhở những bức tường đổ.
Bóng đêm trùm xuống. Ngọn đèn thắp dầu của nhà tàu treo trên thành toa tàu lắc lư, chao đảo. Những tia đèn pin loang loáng. Những cánh võng giăng ngang, dọc, cao, thấp trong toa tàu. Mạnh lấy chiếc võng dù của lính ra mắc từ thành ghế này sang thành ghế kia và bảo bà Đằm lên võng nằm còn anh nằm co quắp trên chiếc ghế gỗ ngắn là chỗ ngồi của hai người.
Dù bình minh hay hoàng hôn, dù dải đất đồng bằng ven biển hay rừng núi chập chùng, chênh vênh, nơi nào cũng thấy cơ thể đất nước thương tích, tan hoang, xác xơ, tiêu điều, nơi nào cũng gặp những gương mặt người khắc khổ, tiều tụy, nhàu nát. Tan hoang, xác xơ nhưng đất nước vẫn lấp lánh vẻ đẹp của thiên nhiên kỳ thú, đa dạng, phong phú. Khắc khổ, tiều tụy nhưng gương mặt người vẫn bình thản, an phận, nhẫn nhịn.
Hai mẹ con bà Đằm rời xe lửa ở một ga xép, lầm lũi bước trên đường thị trấn gập ghềnh dưới nắng lửa tìm đến bến xe khách và chạy vội đến chiếc ô tô đang đón khách. Chiếc ô tô cuốn bụi mù mịt trên con đường đất đỏ. Phía trước, những dãy núi chất ngất.
Trong Phòng Chính sách của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh miền rừng Tây Bắc Sài Gòn, bà Đằm và Mạnh ngồi chăm chú nghe anh sĩ quan trẻ, trưởng ban Chính sách Bộ chỉ huy quân sự tỉnh nói:
- Con suối dưới chân thác nước đổ từ núi ra chảy qua trảng cỏ có những tảng đá lớn và đen như đàn trâu nằm nhai cỏ dưới chân thung lũng à? Lại có mỏm đá trắng dựng đứng gần chân núi nữa? Rồi, em biết rồi. Đó là thung lũng H’ Bia. H’Bia gần căn cứ hậu cần của tỉnh đội thời chiến tranh vì thế bọn em thuộc vùng đó lắm.
Mạnh nói:
- Ngày trước chúng tôi vẫn gọi chỗ đó là trảng Chuồn Chuồn đấy, đồng chí ạ. Lần nào chúng tôi qua đó cũng thấy chuồn chuồn bay rợp trảng. À đồng chí tên gì nhỉ. Chưa biết tên nên cứ đồng chí, đồng chí, cứ như họp chi bộ ấy.
- Em là Bách. Mãi cuối năm 1974, em mới hành quân từ ngoài Bắc vào. Đánh Buôn Ma Thuật, em bị thương. Đơn vị cơ động, gửi em vào bệnh xá tỉnh đội. Quân số tỉnh đội hao hụt vãn nên lành vết thương, em được giữ lại, làm công tác chính sách của tỉnh đội từ đó. Đúng rồi! Chuồn chuồn trên trảng nhiều như cá dưới suối vậy. Suối nhiều cá. Trảng xanh cỏ. Ban ngày cũng thường gặp nai ra trảng ăn cỏ. Hổ theo hơi nai cũng tìm đến đó rình mồi. Ở đó còn là bãi săn của thợ săn cả vùng. Từ đây đến đó, quen đường như cánh thợ săn cũng phải đi một ngày căng. Sáng sớm đi, tối mới đến bãi săn. Bây giờ thợ săn khắp nơi đổ về đó. Sau chiến tranh, em đã hai lần dẫn đội quy tập hài cốt liệt sĩ của tỉnh đội đến đó đào bới rồi.
Mạnh hỏi:
- Đội tìm kiếm hài cốt liệt sĩ về đó lâu chưa, anh Bách?
Anh cán bộ chính sách:
- Lâu rồi. Ngay từ năm 1975. Còn về đó công tác, về tăng gia, về làm công tác chính sách thì năm nào em cũng về. Cơ sở hậu cần của tỉnh đội vẫn còn ở đó mà. Mới có bệnh xá của tỉnh đội chuyển về thị xã. Còn các đơn vị huấn luyện, trường hạ sĩ quan, kho tàng, bãi tăng gia của tỉnh đội đều còn ở lại.
Mạnh hỏi:
- Hai lần về đó tìm đồng đội, các anh có tìm được nhiều hài cốt liệt sĩ không?
Bách lắc đầu:
- Ít lắm. Theo sổ sách của tỉnh đội thì ở đó có hai trăm chín mươi mốt mộ liệt sĩ nhưng lần đầu bọn em chỉ tìm được hai mươi bảy hài cốt nên mùa khô năm sau bọn em phải về tìm lần thứ hai, đào bới không sót chỗ nào cũng chỉ tìm thêm được ba hài cốt.
- Thế nào các anh cũng phải đào bới ở trảng Chuồn Chuồn chứ, anh Bách nhỉ.
- Lần đầu bọn em đến trảng Chuồn Chuồn, đào mấy chỗ, chỉ thấy lớp đất mới bồi, không thấy một mẩu xương. À, ở một hố đào có thấy một chiếc dép cao su chân trái và một lưỡi dao găm. Dép chỉ có một chiếc thôi. Chiếc dép cao su của lính ta khích lệ bọn em đào rộng ra. Tưởng sẽ tìm thêm được ít nhất một hài cốt. Đào mãi cũng không tìm thấy chiếc dép chân phải. Cũng không một mẩu xương. Không biết chỗ đó có phải là mộ của thương binh cụt chân trái chỉ còn chân phải hay nước lũ đã cuốn đi cả hài cốt cùng một chiếc dép rồi. Mùa này con suối H’ Bia bé nhỏ, hiền lành thế nhưng đến mùa mưa, lũ về, cả trảng Chuồn Chuồn là một dòng thác lũ mênh mông, cuồn cuộn chảy. Xoáy lũ cuốn hết lớp đất cũ đi để rồi nó lại bồi lắng lớp đất mới đền bù cho trảng. Hết mùa lũ, dòng suối không còn ở chỗ cũ nhưng bãi bồi hai bên suối lại xanh mướt cỏ như chưa hề có cơn lũ nào qua đó.
Nghe anh cán bộ huyện nói, bà Đằm thốt kêu:
- Đúng rồi! Con tôi đã báo mộng cho tôi đúng như vậy đó. Thế là con tôi đã bị lũ cuốn ra sông dài biển rộng thật rồi. Đằm ơi! Mẹ biết tìm con ở đâu bây giờ?
Mạnh trấn an bà Đằm:
- Mẹ cứ yên tâm. Con vẫn tin sẽ tìm thấy Đằm. Con đã đưa Đằm vào gần chân núi, chỗ tảng đá trắng khá cao. Họ đào vu vơ nên không tìm thấy gì là đúng thôi. Con dẫn mẹ đến đúng chỗ Đằm, mẹ sẽ tìm thấy Đằm.
Anh cán bộ tỉnh đội lại nói:
- Anh cũng phải chuẩn bị tư tưởng cho mẹ phải đón nhận cả tình huống xấu. Trong chiến tranh điều gì cũng có thể xảy ra mà thường là điều tồi tệ. Mẹ ạ, con đã dẫn một người mẹ và một người vợ liệt sĩ đến thung lũng người dân gọi là H’ Bia, còn lính thì gọi là thung lũng Em Ơi tìm con và tìm chồng, rồi cả hai lại phải về tay không, con cũng đau lòng lắm. Lần này mẹ và anh vào H’Bia, con cũng dẫn đi. Con đưa cả hai người lính trong đội bốc mộ liệt sĩ của tỉnh đội vào giúp mẹ.
Đang khắc khoải, nét mặt bà Đằm chợt giãn ra:
- Xin cảm ơn anh. Anh cho mẹ con tôi đi ngay được không?
Anh cán bộ tỉnh đội nhìn bà Đằm giải thích cặn kẽ:
- Vào H’Bia chứ có phải vài bước chân ra chợ huyện đâu mà mẹ bảo đi ngay chiều nay. H’ Bia trong cánh rừng giáp biên giới đấy mẹ ạ. Đi bây giờ thì đêm phải ngủ giữa rừng. Mà đường núi cheo leo, mẹ đi không nổi đâu. Hay là thế này. Mẹ cứ nghỉ lại đây để bọn lính chúng con đi cho nhanh.
Bà Đằm năn nỉ:
- Xin anh để cho tôi đi. Tôi đã vượt hơn ngàn cây số mới vào đến đây. Chỉ một đoạn ngắn vài cây số nữa là đến chỗ con tôi, làm sao tôi đành ở lại đây được. Tôi chỉ muốn đến ngay chỗ con tôi. Đi một ngày không đến thì tôi đi hai ngày, ba ngày. Bây giờ không đi được thì sáng mai đi sớm vậy.
Mạnh cũng nói:
- Anh cứ để mẹ tôi đi. Ta đi hai ngày vậy.
Anh cán bộ tỉnh đội quyết định:
- Có mẹ cùng đi thì phải đi bốn ngày. Đường dốc thí mạng. Con quanh năm leo núi đi đến đó cũng mất chín tiếng. Mỗi ngày mẹ nuốt một đoạn đường bằng hai tiếng leo núi của con chưa chắc đã nổi. Mẹ và anh cứ nghỉ đi, sáng mai đi sớm.
Mạnh đề nghị:
- Chiều nay nghỉ lại đây, anh dẫn mẹ con tôi đến thắp hương cho đồng đội của chúng tôi ở nghĩa trang liệt sĩ của tỉnh. Các anh đã đến trảng Chuồn Chuồn quy tập hài cốt liệt sĩ đưa về nghĩa trang tỉnh thì ở đó có nhiều đồng đội của tôi lắm đấy.
- Việc đó thì đơn giản. Nghĩa trang liệt sĩ của tỉnh gần lắm, đi bộ thôi, không cần xe pháo gì cả, lúc nào đi cũng được. Nhưng có một điều buồn là những hài cốt qui tập được phần lớn đều là liệt sĩ vô danh. Không có bia mộ, không có mộ chí, không thể xác định được tên liệt sĩ. Nếu ở trảng Chuồn Chuồn, bọn em có tìm được hài cốt nào thì cũng chỉ là liệt sĩ vô danh thôi. Đến nghĩa trang anh cũng không thể gặp lại được tên một đồng đội nào đâu.
Mạnh bùi ngùi:
- Chiến dịch Mậu Thân sáu tám chết nhiều quá. Định làm chiến dịch cuối cùng dứt điểm nên vét hết quân đánh vào thành phố hết đợt này đến đợt khác. Các thành phố, các cứ điểm như cái lò lửa nướng quân. Vào bao nhiêu bị thiêu rụi bấy nhiêu. Chết mất xác nhiều lắm. Xác có được chôn cất cũng chỉ chôn vội. Không kịp làm bia mộ, không kịp vẽ mộ chí. Có khi còn không một người sống sót để chôn người chết nữa. Thôi cứ đến nghĩa trang, thắp chung cho các đồng đội của tôi nén nhang cho yên lòng.
Bách dẫn bà Đằm và Mạnh đi vào nghĩa trang. Ba người đứng lặng trước những hàng bia mộ trắng xóa. Mạnh đốt bó nhang lớn đưa cho bà Đằm rồi anh lại đánh lửa đốt bó nhang tiếp. Bà Đằm cúi xuống cắm nhang trước những tấm bia Liệt Sĩ Vô Danh.
MƯỜI CHÍN
Sáng sớm, Bách dẫn hai người lính da ngăm đen trên lưng mang chiếc gùi lớn đến giới thiệu với bà Đằm và Mạnh:
- Đi đường rừng, đào bới đất rừng phải có người lính của rừng mới được việc mẹ ạ. Con điều hai người lính tỉnh đội đều là người dân tộc Ê Đê trong đội qui tập hài cốt liệt sĩ của tỉnh đội đưa mẹ đến trảng Chuồn Chuồn. Đây là Y Blốc Mlô. Kia là Y Bhăm Ênuôi. Bọn con vẫn gọi Y Blốc và Y Bhăm là Y Bốc và Y Băm.
Đặt chiếc gùi lớn trên lưng xuống, sắp xếp lại cuốc, xẻng, tăng, võng, lương thực, thực phẩm của chuyến đi rừng đã có trong gùi, hai người lính Ê Đê bảo Mạnh và bà Đằm đưa ba lô và túi xách cho họ chất thêm vào gùi. Chiếc gùi kềnh càng trên lưng, hai người lính của núi rừng vẫn nhẹ nhàng, thoăn thoắt leo dốc như đi trên đường bằng thênh thang. Lá khô mục xoá mờ lối mòn trên mặt đất và dây leo, cây đổ lấp kín lối đi. Chỉ sau một mùa mưa, mọi lối mòn trong rừng đều bị xoá sạch dấu vế, lại trở về hoang vu. Con dao rừng trong tay, hai người lính Ê Đê đi trước phát cây mở lối. Dù phải vừa đi vừa mở lại con đường rừng nhưng mỗi lần dừng chân nhìn lại sau không thấy bóng người bám theo, họ lại thoăn thoắt trở lại đưa tay kéo bà Đằm bước lên từng bậc dốc.
Như những người lính vượt Trường Sơn ngày nào, buổi trưa họ dừng chân bên dòng suối. Cơm nắm, thịt kho, bi đông nước được lấy ra từ hai chiếc gùi Ê Đê. Ăn hết lát cơm nắm, Mạnh rót nước từ bi đông ra ca đưa cho bà Đằm rồi Mạnh tìm chỗ mắc võng cho bà Đằm nằm nghỉ, còn anh tìm chỗ để được tựa lưng vào gốc cây, ngửa mặt nhìn lên tán cây rừng, nhớ lại một thời sống với rừng núi âm thầm như những bóng ma, đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng. Bách và hai người rừng Ê Đê biến đâu mất, chỉ thấy hai chiếc gùi bên tảng đá lớn.
Chiều tối, Bách dẫn mọi người đến một buôn nhỏ, lưa thưa vài ngôi nhà sàn rải rác trên sườn núi chênh vênh. Đứng ở chân thang ngôi nhà sàn vững chãi, Bách kêu to:
- Nay Phao!
Người đàn ông mặc đồ bộ đội cũ từ trong nhà bước ra sạp tre trước cửa cũng reo lên:
- Ô, cán bộ Bách lại đi tìm mộ liệt sĩ a? Lên nhà đi. Mấy mùa rẫy rồi mình mới được gặp cán bộ Bách đó. Vui dữ ta.
Bách đi trước lên bậc thang rồi quay lại đưa tay dắt bà Đằm. Ngôi nhà sàn tường gỗ mái lá rộng rãi. Bếp lửa giữa nhà làm gian nhà ấm rực lên trong buổi tối mùa đông trên núi cao. Theo lời giới thiệu của Bách thì Nay Phao vốn là lính huyện đội đã giải ngũ về làm trưởng buôn. Bữa cơm tối ở nhà Nay Phao, bát cơm nghi ngút bốc hơi bên bếp lửa đỏ rực. Ăn cơm xong, Mạnh lấy võng mắc cho bà Đằm nằm còn mọi người nằm trên sàn nhà quanh bếp lửa.
Theo sự sắp xếp của Bách thì chặng đường đến thung lũng H’Bia phải đi bốn ngày rưỡi, phải ngủ bốn đêm trên đường. Ngày thứ năm chỉ đi hai tiếng là đến trảng Chuồn Chuồn. Mọi việc đào bới, tìm kiếm phải làm xong trước ba giờ chiều để kịp quay về chỗ nghỉ đêm trước.
Sang ngày thứ năm, khi nhận ra cảnh vật quen thuộc của lối mòn đi vào thung lũng Em Ơi, nỗi xúc động bồi hồi dâng lên trong Mạnh. Triền đồi thấp dân gọi là thung lũng H’Bia còn lính gọi là thung lũng Em Ơi chính là đây. Mạnh nhìn những cây rừng bên lối mòn cũng thấy quen thuộc thân thiết như nó đã kiên trì đứng đó bao năm tháng chờ Mạnh trở về. Mạnh bảo bà Đằm:
- Thung lũng H’Bia đây rồi. Chỉ còn đoạn ngắn là đến trảng Chuồn Chuồn. Không sợ lạc rừng, không sợ bị bỏ rơi lại sau nữa. Ngồi nghỉ một tí đã, mẹ ạ.
Nghe nói sắp đến nơi, bà Đằm càng nóng ruột, giục:
- Đi cố một tí nữa rồi nghỉ một thể. Mẹ nóng ruột lắm. Nó đang mong mẹ đấy. Đến ngay chỗ anh con đang đợi mẹ con mình đi con.
Mạnh đứng lại, bảo:
- Chỗ này chính là chỗ tốp thương binh chúng con rơi vào ổ phục kính của lính Mỹ đây, mẹ ạ.
Bà Đằm vẫn lầm lũi bước đi. Mạnh nhìn quanh cố tìm bụi cây nơi Đằm bị bắn mà không thể nhận ra. Thung lũng như trần trụi hơn trước, cây cối như thưa thớt, xơ xác hơn trước. Những gốc cây bị chặt ngổn ngang. Bên dúm tro than, những mẩu củi khô cháy dở đã tắt của cái bếp thợ săn hoặc bếp thợ rừng. Chỉ có thác nước ở vách núi dưới kia vẫn trắng xóa và tiếng suối dưới thung lũng, khuất sau tán cây rừng vẫn rì rầm bền bỉ. Với niềm tin chính tay mình đã chôn Đằm trong cái thung lũng đã qua lại mòn dép, mình biết chính xác chỗ Đằm thì sẽ tìm thấy Đằm, Mạnh hăm hở dẫn mẹ Đằm đi tìm Đằm. Nhưng đến đây, nhìn thấy thác nước như vô tận từ trong núi đổ ra, nhớ đến lời Bách nói về những con lũ hung dữ cuốn băng cả trảng Chuồn Chuồn, nhớ lời Bách nói rằng đội tìm kiếm hài cốt liệt sĩ của tỉnh đội đã hai lần đến trảng Chuồn Chuồn tìm kiếm mà không tìm thấy gì, Mạnh bỗng thấy lo lắng. Dẫn mẹ Đằm đi mà không tìm thấy Đằm, thật tội cho mẹ. Chỉ có điều làm cho Mạnh tạm yên lòng là tất cả những việc cần làm để tìm kiếm Đằm, Mạnh đã làm để rồi không phải ân hận. Mạnh lại bước nhanh theo kịp bà Đằm đang lầm lũi đi.
Trảng Chuồn Chuồn đây rồi. Vẫn những tảng đá im lìm trên thảm cỏ xanh tốt. Ở những khoảng đất trống còn in rõ những dấu chân thú. Mạnh vượt lên đi trước bà Đằm. Cán bộ Bách và hai người lính Ê Đê đang đợi Mạnh bên bờ suối gần mỏm đá trắng. Mạnh đứng nhìn vào mỏm đá trắng trên trảng và thác nước trong vách núi, dóng một đường thẳng. Mạnh vừa nhổ đám cỏ mà anh xác định là nơi chôn Đằm thì bà Đằm đi đến. Mạnh bảo:
- Đến nơi rồi. Mẹ nghỉ đi cho đỡ mệt rồi tiến hành công việc.
Bà Đằm vừa thở vừa nói:
- Đến nơi rồi à? Lúc này còn bắt mẹ chờ đợi nữa, mẹ còn mệt hơn. Con chỉ chỗ Đằm nằm lại để mẹ gọi nó về.
Mạnh chỉ chỗ đất anh đã nhổ cỏ:
- Đằm nằm đây mẹ ạ. Đầu hướng về phía núi là phía Bắc quê nhà.
Nhận lại chiếc túi xách do Y Bốc đưa, bà Đằm lấy từ trong túi ra lá cờ giấy năm màu cửa Phật gấp gọn lại, túi ni lông với những trái cam chín vàng, hai thẻ nhang, hộp bánh và chiếc bật lửa. Đưa cho Mạnh lá cờ Phật, bà Đằm tìm gò đất cao đặt túi cam chín vàng và hộp bánh. Lá cờ Phật đã được lồng đoạn cây thẳng làm cán, Mạnh cắm cờ Phật chỗ bà Đằm đặt lễ vật rồi đón thẻ nhang bà Đằm đưa, bật lửa đốt cả thẻ nhang. Đưa bà Đằm ba nén nhang, Mạnh chia nắm nhang còn lại cho Bách và hai người lính tỉnh đội. Bốn người đàn ông cầm những cây nhang nghi ngút khói đứng thành hàng ngang sau bà Đằm khi bà Đằm nâng ba cây nhang trước mặt rì rầm khấn nguyện:
- Đất có Thổ Công, sông có Hà Bá. Thưa Thổ thần, con là Vũ Thị Lành đến tìm con trai con là Nguyễn Văn Đằm mang thân đền nợ nước, phần xác đã được an nghỉ nhiều năm qua trong đất lành của Thần, phần hồn được nương náu trong khí thiêng của nước. Nay con xin phép Thần Đất, Thần Rừng cho con được đưa phần xác của sinh linh Nguyễn Văn Đằm về với quê cha đất tổ và đón phần hồn về nương bóng tổ tiên. Con xin tạ ơn chư Thần.
Vái ba vái, cắm nhang trên mô đất cao cạnh lễ vật nhưng đất khô cứng không cắm nhang được. Anh lính tỉnh đội Y Băm liền mang đến bình cắm nhang đã có đầy cát mà mỗi lần lên đường đội quy tập hài cốt liệt sĩ đều mang theo. Cắm nhang vào cát trong bình nhang, bà Đằm cầm thẻ nhang còn lại đi theo Mạnh đến nơi Mạnh chôn Đằm đã được cán bộ Bách và hai lính trẻ người Ê Đê dọn sạch cỏ trên một khoảng rộng. Mạnh đốt thẻ nhang và đưa cho bà Đằm ba cây. Xúc động không đứng nổi nữa, bà Đằm quỳ gối, gập chân về phía sau, tay cầm ba cây nhang nâng lên ngang mặt, nghẹn ngào:
- Đằm ơi, mẹ đến đón con về với ông bà tổ tiên đây. Con sống sạch, chết thơm, con sống thiện, chết linh, hồn thiêng của con cũng thấu hiểu nỗi lòng khắc khoải của mẹ mong được đón con về như thế nào. Đến bây giờ mẹ mới được đón con về đây...
Bà Đằm nghẹn ngào lặng đi rồi tiếng bà nhỏ lại chỉ còn thì thầm trong tiếng gió lao xao, trong tiếng suối rì rầm gần xa. Vái ba vái, bà Đằm cắm ba nén nhang xuống mảnh đất ẩm gần suối rồi gục xuống giang tay ôm lấy mảnh đất rừng ẩm ướt.
Mạnh đứng sau bà Đằm, hai tay nâng lên ngang trán nắm nhang đỏ lửa, nghi ngút khói sương và ngạt ngào hương trầm, rì rầm khấn:
- Tôi là Trần Mạnh, lính đại đội Ba, tiểu đoàn Chín, trung đoàn Sáu Sáu chủ lực Miền. Là người sống sót trong chiến dịch trung đoàn tiến vào Sài Gòn tết Mậu Thân 1968. Cũng là người duy nhất còn trên thế gian trong hai mươi ba lính trung đoàn bị thương trên đường rút về hậu cứ bị phục kính ở trảng Chuồn Chuồn. Đưa người mẹ của một người lính trung đoàn Sáu Sáu, mẹ Nguyễn Văn Đằm đến trảng Chuồn Chuồn, tôi lại da diết nhớ những ngày đồng đội sống chết có nhau, da diết nhớ những đồng đội đã nằm lại ở trảng Chuồn Chuồn. Hôm nay tôi đưa mẹ Đằm đến viếng đồng đội thân yêu và đón Đằm về với tổ tiên. Xin đồng đội nghĩa tình giúp mẹ tìm được Đằm. Đồng đội thân yêu! Hiến dâng cuộc đời cho đất nước toàn vẹn và bình yên rồi trở về với đất Mẹ Việt Nam, đồng đội thân yêu của tôi mãi mãi là anh linh, là hồn thiêng đất nước. Mẹ Đằm và tôi thành tâm kính viếng hương hồn đồng đội.
Cầm nắm nhang đến từng vị trí đồng đội thân yêu năm xưa nằm lại, Mạnh cắm nhang và gọi tên đồng đội:
- Tiểu đội trưởng Đặng Đình Đức.
- Liên lạc đại đội Lê Viết Bằng.
- Bác sĩ quân y trung đoàn, Trần Xuân Sang . . .
Cắm hết nắm nhang, Mạnh trở lại, nâng bà Đằm đứng dậy, dìu bà ra ngồi trên thảm có để hai người lính Ê Đê động cuốc xẻng. Hai người lính tỉnh đội mới đào được một lớp đất, bà Đằm đã ra sát miệng hố chăm chăm nhìn xuống lớp đất vừa xới lên, bà bóp vụn từng mẩu đất, săm soi tìm kiếm. Chỉ có đất vụn và sỏi đá.
Hố đào đã lút ngang ngực hai người lính tỉnh đội. Mạnh bảo:
- Ngày ấy chỉ có chiếc xẻng trong tay bới đất và sức cũng không còn, làm sao có thể đào sâu được thế này. Thôi, không đào sâu nữa. Đào rộng ra.
Nhưng đào rộng ra cũng không tìm thấy một mẩu dấu tích của một hài cốt. Mạnh dìu bà Đằm đứng lên, nói:
- Mất hết thật rồi mẹ ạ! Ngày ấy con chỉ nghĩ đến thú rừng nên cố gửi Đằm vào đất đai để thú rừng khỏi đến tha đi mất. Không ngờ lại còn dòng suối đến mùa lũ cuốn trôi cả đất đá.
Bà Đằm được Mạnh dìu rời trảng Chuồn Chuồn với gương mặt thẫn thờ, não nề.
HAI MƯƠI
Bà Đằm bảo cô phiên dịch:
- Hôm nay lịch ta là rằm tháng bảy xá tội vong nhân. Tối rằm tháng bảy, tôi làm lễ cúng cho những vong hồn bơ vơ, chưa tìm được về cội nguồn, tổ tiên, không có người thân đón về đoàn tụ. Vong hồn con trai bà Mary cũng đang bơ vơ tội nghiệp. Cô nói với bà Mary rằng tôi mời bà Mary tối nay ở lại với tôi. Tôi sẽ hỏi bà ấy tên tuổi con bà để tôi làm lễ xá tội vong nhân cho nó. Tôi gọi vong con bà Mary về cho vong được gặp mẹ. Mẹ con tôi cũng có chút quà cho các vong hồn trẻ chết vùi chết dập rồi bơ vơ nơi xa lạ những năm chiến tranh thê thảm vừa qua nhưng chẳng có quà nào sung sướng bằng con được gặp mẹ.
Cô phiên dịch hớn hở:
- Hay quá. Cháu rất vui được chuyển nhả ý của bà tới bà Mary. Cháu càng mong được dự lễ cúng rằm tháng bảy của hai người mẹ bơ vơ ở cõi dương gặp được hai người con bơ vơ ở cõi âm.
Bà Đằm nói thêm:
- Có thể bà Mary không có niềm tin như chúng tôi. Bà không tin ngày lễ rằm tháng bảy xá tội vong nhân của chúng tôi, không tin có chuyện đón đưa vong hồn. Bà ấy cũng chẳng tin rằng người chết, xác về cát bụi nhưng vong hồn thì còn mãi trong khí thiêng sông núi, trong tâm thức người thân. Không tin vào vong hồn nên bà ấy không có thế giới tâm linh, không nghĩ rằng vong hồn con bà có thể về được với bà. Bà không tin nhưng con bà đã có mặt trong cuộc đời thì thân xác dù không còn vẫn còn vong hồn và vong hồn đó vẫn đang bơ vơ trong cõi tâm linh. Tôi gọi vong con bà Mary về thì con được gặp mẹ. Thế cũng tốt rồi. Bà không tin nhưng vong hồn con bà đã gặp được mẹ thì tự nhiên trong tâm người mẹ cũng thanh thản, nhẹ nhõm. Cô bảo bà Mary rời khách sạn giường êm, nệm ấm về ngủ giường tre, chiếu cói làng quê với chúng tôi một đêm.
Nghe cô phiên dịch chuyển lời mời của bà Đằm, bà Mary nét mặt rạng rỡ cảm ơn bà Đằm. Bà Đằm lại nói:
- Rằm tháng bảy xá tội vong nhân cho con tôi lưu lạc được về với tôi. Con bà Mary chết ở đất nước Việt Nam và bà Mary đang ở chỗ tôi là bà Mary đang có mặt ở mảnh đất vong hồn con bà đang bơ vơ thì con bà Mary khi được tôi gọi vong cũng sẽ gặp được mẹ. Tôi và bà Mary, hai người mẹ tội nghiệp đã gặp được nhau thì tôi cũng mong hai đứa con oan nghiệt của chúng tôi ở hai phía một thời thù địch cũng vất bỏ thù địch, làm lành với nhau. Chỉ có cái ác mới nuôi hận thù. Trong lòng chỉ có hận thù thì không thể là người tử tế được, bà ạ!
Bà Mary lặp đi lặp lại lời cảm ơn và nói:
- Đến đây được gặp bà, tôi đã thấy nhẹ lòng, vợi bớt nỗi bất an và cả nỗi mặc cảm. Nếu con tôi cũng được bà mở lòng nhìn nhận, tha thứ cho nó, nó cũng được giải thoát như tôi. Tôi cảm ơn bà nhiều lắm. Bà đã giải thoát cho cả hai mẹ con tôi.
Bà Đằm liền bảo:
- Bà đừng cả nghĩ như vậy. Bà đâu có gây ra cảnh bom đạn chết chóc vừa qua. Bà cũng như tôi bị đưa đẩy vào cuộc can qua rồi mất con oan uổng, mất cả sự bình yên, thảnh thơi trong lòng. Bà biết không, trên đường đi tìm con, tôi đã ghé vào nhiều nghĩa trang liệt sĩ. Đến nghĩa trang liệt sĩ nào tôi cũng thấy bạt ngàn những nấm mồ liệt sĩ vô danh. Những nấm mồ vô danh ấy như phủ kín cả đất nước chúng tôi. Người chết không còn tên thì cha mẹ vợ con làm sao tìm được để đón về. Trên khắp đất nước đau khổ của chúng tôi, nơi nào cũng nhiều vô kể những vong hồn trai trẻ bơ vơ vất vưởng, bà ạ. Vì thế lễ xá tội vong nhân năm nào tôi cũng cố làm sao có được nhiều phần quà cho những vong hồn bơ vơ tội nghiệp không nơi nương tựa đó.
Bà Mary nhìn bà Đằm với ánh mắt của một đức tin:
- Gặp bà không phải tôi chỉ thấy cái mất của tôi thật bé nhỏ so với cái mất quá lớn của bà mà tôi còn thấy con người tôi cũng thật bé nhỏ so với tấm lòng vị tha rộng lớn của bà. Bà cho tôi được ở lại nhà bà đêm nay. Bà còn xá tội vong nhân cho con tôi nữa. Mẹ con tôi xin được nương náu trong tấm lòng bao dung của bà.
Bà Đằm vẫn tỉ tê:
- Bà đừng coi tôi xa lạ như vậy. Tôi cũng như bà chỉ là phận đàn bà nhỏ bé, bình thường, cả đời chằng làm được việc gì to tát, chẳng có được sự tích gỉ lớn lao. Tai hoạ ập đến thì phải chấp nhận, phải vượt lên mà sống thôi, bà ạ. Biến động xảy ra. Tai hoạ ập đến. Đàn ông phải ra đương đầu với tai hoạ, bỏ mạng trong tai hoạ trở về cát bụi là xong. Mọi đau khổ, mất mát để lại cho cho phận đàn bà. Tai hoạ gây đau khổ lớn nhất cho đàn bà là chiến tranh. Chiến tranh lùa hết đàn ông vào huyệt mộ không đáy, chồng chất trái núi đau khổ lên cuộc đời những người đàn bà còn ở lại cõi đời. Bà và tôi cùng bị đè dí dưới trái núi đau khổ đó thì phải hiểu nhau, chia sẻ với nhau. Đó là điều rất bình thường, có gì to tát đâu. Tôi mời bà ở lại với tôi để tôi được chia sẻ với bà và bà cũng hiều chúng tôi hơn.
Và Mary nói:
- Tôi rất vui có được một đêm ở nhà bà, có được một đêm ở làng quê êm đềm Việt Nam
- Vậy là bà đã vui lòng ở lại dự lễ với tôi, để tôi đi bày lễ.
Bà Đằm bày đồ lễ trên bàn thờ trong nhà. Hai bình hoa cúc vàng. Đĩa quả cây, chuối, bưởi, cam, quýt... Đón hai đĩa xôi và đĩa thịt lợn luộc còn nguyên cả miếng to Thắm đưa từ bếp lên, bà Đằm đặt lên bàn thờ rồi ra bầy lễ ngoài sân. Chiếc mâm nhôm đặt trên ghế ngoài sân, sát bức tường xây dở. Quanh bát nhang giữa mâm bà Đằm bày đủ các loại quả cây của những mảnh vườn quê. Nhãn cuối mùa. Na đang mở mắt. Ổi chín thơm lựng. Quýt vàng. Cam xanh. Múi bưởi trắng, khúc mía tím. Khoai lang luộc. Ngô nếp nướng... Và đủ các loại bánh của chợ quê. Bánh đa. Bánh đúc. Bánh tẻ. Bánh nếp. Bánh bỏng. Bánh dày. Bánh bèo. Bánh khoai. Bánh dậm. Bên những bánh trái của làng quê miền Bắc là bánh ít, bánh xèo, bánh pía của miền Nam. Lại có cả những túi, những hộp bánh làm từ bột mì trong dây chuyền công nghiệp. Thắm mang ra đĩa gạo, đĩa muối lựa chỗ đặt vào mâm, lại bưng từ bếp ra nồi cháo lớn bốc hơi nghi ngút đặt trên sân cạnh mâm lễ và trải chiếc chiếu trước mâm lễ.
Bà Đằm trở lại giải thích với bà Mary:
- Người Việt chúng tôi theo đạo Phật quan niệm rằng những người khi sống gian dối, bất lương, làm điều độc ác, gieo tai họa, mang lại đau khổ cho người khác, khi chết xuống cõi âm, linh hồn bị giam cầm trong ngục tối. Đến ngày rằm tháng bảy xá tội vong nhân, những linh hồn tội lỗi đó sẽ được xem xét xá tội cho ra khỏi địa ngục âm phủ trở về với người thân trên dương gian. Khi sống, dù cố sống lương thiện, gắng làm điều phúc để lại đức cho con cháu và để lại cái tình người cho đời nhưng ít nhiều ai cũng có lúc lầm lỗi nên khi chết, các linh hồn thường không tránh khỏi bị giam cầm nơi địa ngục. Vì thế ngày rằm tháng bảy nhà nào cũng bày hai lễ, lễ trong nhà tưởng nhớ ông bà, tổ tiên đã qua được chín tầng địa ngục và lễ ngoài Trời phát quà cho những linh hồn trong ngày xá tội vong nhân được thoát chốn giam cầm về gặp người thân nhưng vất vưởng không có người thân đón về. Bà cho tôi biết đầy đủ tên tuổi con bà để tôi gọi nó về. Những linh hồn khi sống làm nhiều điều ác, gây đau khổ cho nhiều người khác và những linh hồn lạc lõng không có chốn về thì sau ngày xá tội vong nhân mở cửa địa ngục lại trở về chốn âm u đó nên chút quà cho họ trong ngày này quí lắm, như ngụm nước mát với kẻ đi đường xa dưới trời nắng vậy.
Bà Mary bảo cô phiên dịch:
- Cô giúp tôi nói tên thằng Summer với bà. Tôi nói chắc bà nghe không rõ.
Cô phiên dịch chậm rãi phát âm tách bạch từng âm tiết tên con bà Mary với bà Đằm:
- Con trai bà Mary tên là Tô-mát Sâm-mơ bà ạ. Cháu đọc lại nhé, Tô-mát Sâm-mơ. Bà nhắc lại tên Tô-mát Sam-mơ để cháu sửa phát âm cho bà gọi đúng tên con bà Mary.
Bà Đằm lẩm nhẩm nhắc đi nhắc lại tên con trai bà Mary.
Nhá nhem tối. Ngọn đèn dầu le lói trên mâm lễ ngoài sân. Những cơn gió chợt ào đến làm những cây nhang đỏ rực lên rồi lại âm thầm, nghi ngút cháy trong đêm. Trên chiếu, bà Mary ngồi bên bà Đằm mặc áo dài nâu. Bà Mary làm theo bà Đằm rạp mình vái ba vái rồi chắp tay nghe cô phiên dịch chuyển nghĩa lời Bà Đằm khấn:
- Nam mô a di Đà Phật. Con lạy chín phương Trời mười phương Chư Phật. Con lạy Đức Phật Di Đà. Con lạy Bồ Tát Quan Âm. Con lạy Táo Phủ Thần Quân Chính Chủ.
Con thưa Chư Phật, Chư Thần,
Tháng bảy trong tiết thu phân
Ngày rằm xá tội vong nhân hải hà
Cõi âm mở cửa ngục ra
Vong linh không cửa không nhà bơ vơ
Chúng sinh không mả, không mồ
Gốc cây, xó chợ, bụi bờ gió sương
Cô hồn nam bắc tây đông
Trẻ già trai gái mời cùng về đây
Dù người thác chẳng nguyên thây
Binh đao chém giết chết bầy, mồ chung
Dù người lao khổ khốn cùng
Chết đường, chết chợ, trôi sông, đắm thuyền
Chết vì tham vọng bạo quyền
Chết vì học thuyết hão huyền hư vô
Đẩy xô lớp lớp trẻ thơ
Vào lò lửa của hận thù chiến tranh
Bao nhiêu đất nước tan tành
Bao nhiêu hồn phách trở thành biệt tăm
Con ơi, con Nguyễn Văn Đằm
Con ơi, con Nguyễn Văn Đằm
Con ơi, con Nguyễn Văn Đằm
Con lạc đâu để chục năm mẹ tìm
Về đi! Con hỡi linh thiêng
Tìm về với cõi bình yên cuộc đời
Yêu thương người ở với người
Thù hận trả lại cho nơi hận thù
Cái thời thù hận mịt mù
Tuổi xanh thành củi đốt lò chiến tranh
Tuổi xanh thành những hồn oan
Hồn oan trong cõi nhân gian vật vờ
Hồn linh Tô-mát Sâm-mơ
Hồn linh Tô-mát Sâm-mơ
Hồn linh Tô-mát Sâm-mơ
Về đây có mẹ chín chờ mười mong
Về đây với những tấm lòng
Không còn thù hận, không còn hiềm nghi
Chư Thần Chư Phật từ bi
Cho hồn được rộng đường đi, lối về
Lòng thành tín chủ dãi dề
Có gì sơ xuất lượng bề bỏ qua.
Nam mô A Di Đà.
Rạp người trên chiếu vái ba vái, bà Đằm đứng lên cầm đĩa muối và đĩa gạo vãi ra ngoài cổng. Mạnh bưng nồi cháo theo bà Đằm ra cổng. Thắm mang chồng tô và thìa đi sau Mạnh.
Bà Đằm trở vào bảo bà Mary:
- Gạo và muối là lương thực, thực phẩm nuôi sống con người. Những linh hồn vất vưởng qua đây ghé vào húp bát cháo, chia nhau quả cây, tấm bánh và nhận những hạt gạo, hạt muối tượng trưng cho ấm lòng, bà ạ.
Bà Mary gật gật đầu cảm động:
- Bao dung với người sống, lại bao dung với cả linh hồn người chết khắp bốn phương, thật là những tấm lòng rộng rãi, cao cả.
Bà Đằm thấp giọng như thì thầm với bà Mary:
- Nếu chiếc máy bay rơi xuống đây mang theo cả con bà và đêm rằng tháng bảy bà ở lại nơi con bà gửi xác, gửi hồn thì thế nào đêm nay con bà cũng được gặp bà đấy. Đêm mùa thu ở nhà quê chúng tôi mát mẻ, trong lành lắm. Vì thế đêm rằm tháng bảy tôi mới mời bà ngủ lại đây. Dân gian chúng tôi có câu: Một đêm nằm, một năm ở. Ở với nhau một đêm bằng tình cảm sống với nhau hằng năm trời đấy bà ạ.
Bà Mary lẩm bẩm nhắc lại lời cô phiên dịch, dịch lời bà Đằm:
- Một đêm nằm, một năm ở. Cảm ơn tấm lòng rộng mở của bà. Một đêm nằm, một năm ở. Tôi có một đêm ở đây và tình cảm của những năm tháng phần đời còn lại của tôi cũng để lại ở đây.
HAI MƯƠI MỐT
Bà Đằm dẫn bà Mary, Tom và cô phiên dịch đi lên cầu thang, vào căn phòng rộng chỉ có một chiếc giường. Bà Đằm nói:
- Hai mẹ con bà ở phòng này. Mười năm trận mạc, con rể tôi có nhiều bạn chiến đấu, sống chết có nhau. Khi xây ngôi nhà này con rể tôi xây gian phòng rộng làm phòng khách đón bạn. Nhà vừa xây xong, bức tường trước nhà còn đang xây dở, tôi đã được đón bà vào nhà. Mẹ con bà là vị khách đầu tiên của ngôi nhà này đấy. Không hiểu sao dân gian chúng tôi lại có quan niệm rằng nhà vừa xây xong mà có khách xa đến nhà là điềm tốt lành. Chẳng lẽ phải phá đi ngôi nhà vừa xây xong lại điều tốt lành sao?
Bà Mary rì rầm nói với bà Đằm:
- Bà ơi! Bà đã làm một điều tốt lành, cao cả hiếm có lắm đấy. Xin Chúa, à không, bà theo đạo Phật nên tôi cầu xin Trời Phật ban phúc cho bà.
Bà Đằm cũng nhỏ nhẹ:
- Cảm ơn bà. Tôi đã đi tìm con, tôi biết nỗi đau mất con nên làm được gì chia sẻ nỗi mất con với bà thì tôi phài làm thôi. Ai ở vào hoàn cảnh tôi cũng làm như vậy cả, không có gì khác thường đâu. Trong phòng có giường, có chỗ mắc võng. Bà Mary nằm giường, cho thoải mái. Con tôi sẽ mắc chiếc võng lính của nó cho cậu Tom nằm. Thằng con rể nhà tôi cả đời lính ở rừng, chỉ quen nằm võng, nên phòng ngủ của vợ chồng nó và phòng khách để đón bạn thời ở rừng của nó, nó đều làm chỗ mắc võng. Nhà tôi ở phía bắc sông Hồng. Đứng trên tầng cao nhất nhìn thấy sông. Cửa nhà mở về phía nam đón gió sông Hồng, mát lắm.
Bà Mary reo lên:
- Ồ! Có võng thì tuyệt quá. Bà cho tôi nằm võng.
Nhìn dáng to lớn, đẫy đà của bà Mary, bà Đằm ngần ngại:
- Võng của lính ngủ trên những ngả đường dong ruổi trận mạc, nhỏ hẹp, chênh vênh lắm, bà nằm không được thoải mái đâu. Nhà tôi có đến hai chiếc võng lính như vậy. Võng của thằng con rể và võng của con trai tôi cũng do thằng con rể mang về. Võng của lính, để cho cậu Tom vốn cũng là lính nằm. Có giường, bà cứ nằm giường cho thoải mái. Tội gì phải bó mình trong chiếc võng hẹp.
Bà Mary thuyết phục bà Đằm:
- Giường thì ở đâu cũng có. Chỉ ở nhà bà mới có võng. Lại là võng lính, cánh võng đã qua khói lửa trận mạc càng không ở đâu có được. Xin bà cho tôi có được một đêm nằm cánh võng của những người lính cùng thời với con tôi.
Nghe cô phiên dịch nói nhà bà Đằm có hai chiếc võng của lính Việt Cộng mang từ mặt trận về, Tom liền bảo:
- Cả đời lính tôi phải thực hiện những phi vụ bay truy kích Việt Cộng trong những cánh rừng nhiệt đới mà chưa bao giờ tôi nhìn thấy Việt Cộng. Đến đây tôi mới được gặp Việt Cộng, lại được bình yên ngủ trong ngôi nhà Việt Cộng. Tôi lại có được một đêm nằm trên chiếc võng của Việt Cộng nữa thì thật tuyệt. Cánh võng của những người lính Việt Cộng đã mắc trong những cánh rừng nhiệt đới mà tôi đã trút bom đạn. Cho tôi được nằm trên cánh võng đó để tôi có một đêm được trải nghiệm là người lính Việt Cộng.
Tom quay sang hỏi bà Đằm:
- Phòng này có thể mắc được hai võng không, thưa bà?
Bà Đằm bảo:
- Để tôi bảo con tôi sắp xếp.
Bà Đằm gọi Mạnh lên. Mạnh nói:
- Trong phòng chỉ mắc được một võng thôi nhưng ngoài hành lang và quanh nhà này đủ chỗ mắc võng cho một trung đội.
Tom reo lên:
- Tuyệt! Tôi sẽ nằm ngoài hành lang đón ngọn gió từ sông Hồng dạt dào thổi đến.
Tom nói với bà Mary:
- Con sông Hồng của Việt Nam chảy ngang qua thủ đô Hà Nội cũng giống như con sông Potomac của nước Mỹ chảy ngang qua thủ đô Washington DC đấy mẹ ạ. Chỉ khác là sông Hồng đỏ phù sa của cuộc sống sôi động sinh sôi ở phía bắc Hà Nội còn sông Potomac trong xanh của sự tĩnh lặng chảy phía tây nam Washington DC. Mắc võng ở đây cũng giống như mắc võng trong cánh rừng bên bờ sông Potomac ở Washington DC vậy.
Mạnh đi ra rồi trở vào phòng với chiếc ba lô lính cũ kỹ. Lôi từ ba lô ra chiếc võng, Mạnh giăng cánh võng trong căn phòng. Cánh võng xanh nhưng có lớp vải dù mỏng tang, trắng muốt bao quanh võng làm cho cánh võng như vệt ánh trăng chiếu vào phòng. Mạnh giải thích:
- Lính Việt Cộng chúng tôi ở trong rừng không những nhiều muỗi truyền bệnh sốt rét mà còn nhiều rắn độc vì thế chúng tôi phải có cái bọc võng này. Quân đội chỉ trang bị cho chúng tôi võng, còn bọc võng chúng tôi phải tự trang bị bằng cách lấy dù pháo sáng từ máy bay Mỹ thả xuống rồi tự cắt may. Lấy kéo cắt tóc cắt vải dù. Bàn tay lính kim chỉ cặm cụi may bọc võng. Vì thế có thể nói quân đội Việt Nam trang bị cho chúng tôi võng còn quân đội Mỹ trang bị cho chúng tôi bọc võng. Từ nguồn gốc cánh võng này đã là cánh võng Việt Mỹ. Cánh võng thời chiến tranh lính Việt cộng mắc dưới tán cây rừng, thời bình yên cựu chiến binh Mỹ mắc trên nhà lầu. Ông Tom thấy có đúng là cánh võng Việt Mỹ không?
Tom thốt kêu lên:
- Bravo! Cánh võng lính giăng trong không gian và cánh võng Việt Mỹ giăng trong thời gian. Bravo!
Bà Mary nhìn cánh võng xanh màu lá cây được lớp vải dù trắng muốt bọc quanh ồ lên ngạc nhiên thích thú. Mạnh hướng dẫn bà Mary:
- Nằm vào võng rồi bà kéo tấm đậy của bọc võng lên che kín mép võng, muỗi chỉ còn biết bay quanh võng mà khóc thôi. Ở đây nhiều muỗi nên phải có bọc võng mới ngủ yên được.
Mạnh mang chiếc võng thứ hai ra mắc ở hành lang và nói với Tom:
- Chiếc võng này của ông anh vợ tôi chết trên đường hành quân. Lúc chết, anh tôi còn đeo ba lô trong đó có chiếc võng này trên lưng. Tay tôi chôn anh tôi rồi tôi giữ ba lô từ đó, lúc chúng tôi chỉ là đồng đội, là bạn chiến đấu. Tôi giữ chiếc ba lô có chiếc võng này chỉ để giữ một kỷ vật của một người bạn lính. Đến nay chúng tôi đã là anh em trong một gia đình thì chiếc võng càng trở thành kỷ vật quí giá đến thiêng liêng với tôi. Tôi tưởng kỷ vật thiêng liêng ấy chỉ nằm im trong ký ức và không bao giờ phải đụng đến ký ức đau buồn thời chiến tranh nữa. Không ngờ hôm nay võng lại được mang ra mắc cho ông nằm.
Tom chậm rãi nói:
- Sự có mặt của chúng tôi ở đây đã là sự có mặt của ký ức rồi. Nhưng chúng tôi mong sự có mặt của chúng tôi không phải để trở về với ký ức hận thù đau buồn mà để thay nỗi đau buồn bằng sự chia sẻ và chúng tôi đã thực sự nhận được sự chia sẻ nên mới có buổi tối hôm nay và tôi mới được nằm trên cánh võng kỉ vật thiêng liêng của ông và là cánh võng Việt Cộng với tôi.
Mạnh chìa bàn tay ra:
- Chúc ông một đêm ngon giấc.
Tom nắm chặt tay Mạnh:
- Cảm ơn! Cảm ơn!
Trong căn phòng tối mờ, yên tĩnh, lớp vải dù trắng bọc chiếc võng uốn cong như một vầng trăng khuyết treo trong trời đêm thăm thẳm. Gió lao xao lùa vào phòng, màu trắng rập rờn lay động như mảnh trăng bàng bạc trôi trong mây. Một ngày dồn dập những sự việc bất ngờ, dồn dập những cảm xúc mạnh mẽ, tưởng bà Mary sẽ thao thức như bao đêm bà vẫn thao thức nhớ đứa con trai. Nhưng một ngày vận động mệt mỏi và không gian nhẹ nhõm, thanh thản của làng quê Việt Nam đã nhanh chóng đưa bà Mary chìm sâu vào thế giới mông lung, hư ảo.
Thế giới hư ảo mộng mị đó đưa bà Mary trở lại con đường kỳ lạ như cổ tích bà vừa mới đi qua. Ồ, sao bà Mary lại lẻ loi, ngơ ngác trôi giữa dòng người cuồn cuộn trên đường phố Hà Nội. Trôi dạt thế nào, bà Mary lại một mình lạc vào con đường rợp bóng cây xanh giữa hai hồ nước bàng bạc sương khói. Bà Mary lại đứng trước tấm bảng bê tông có những hàng chữ ghi lại sự kiện chiêc máy bay Mỹ bị bắn cháy trên bầu trời Hà Nội và người lái máy bay rơi xuống hồ nước. Chiếc máy bay đùng đùng bốc cháy. Viên thiếu tá lái máy bay bật ra khỏi quầng lửa. Cánh dù bung ra bị cơn gió thốc đến thổi tung lên rồi chênh chếch rơi xuống hồ. Bà Mary chạy ra mép hồ nhìn viên thiếu tá ngoi ngóp trên hồ nước ngay sát bờ hồ nơi bà Mary đứng. Viên phi công ngoi ngóp trên mặt hồ rõ dần lên để nhận ra khuôn mặt viên thiếu tá John McCain. Nét mặt viên thiếu tá phi công John McCain bỗng mờ đi dể hiện rõ dân lên khuôn mặt Summer con trai bà Mary. Bà Mary hét to: Sum...m...er... mer! Nhưng mặt hồ bỗng rộng ra mênh mông như biển, không nhìn thấy bờ bên kia nữa và biển nước bỗng biến thành biển lửa và thằng Summer của bà bị biển lửa đốt cháy bùng lên sáng rực rồi đột ngột tắt ngóm, tối đen. Bà Mary hốt hoảng thét : Sum m... er... mer! Sum m...er... mer! Sum m... er... mer!
Bà Mary đang thét lạc cả giọng thì bà Đằm và cô phiên dịch lật đật chạy từ dưới nhà lên. Bà Đằm khẽ khàng lay gọi bà Mary:
- Bà Mary! Bà Mary!
Bà Mary bừng tỉnh, mồ hôi ướt đầm trên mặt, hổn hển nói:
- Tôi vừa gặp. À, không phải tôi chưa kịp gặp mà tôi chỉ vừa nhìn thấy con tôi.
Bà Đằm hỏi:
- Thấy con thì bà phải vui chứ sao bà lại hốt hoảng vậy?
Bà Mary vẫn thảng thốt:
- Tôi thấy thằng Summer bị đốt trong biển lửa. Tôi vừa thét gọi được một tiếng Summer, con chưa kịp nhận ra mẹ thì cả tôi và thằng Summer đều bị vùi trong đêm tối mịt mù. Tôi hoảng quá vội gào tên nó.
Bà Đằm hỏi:
- Bà thấy thằng Summer bị vùi trong đêm tối à? Nó bị vùi sâu trong lòng đất thì phải tối tăm mịt mù chứ sáng sủa thế nào được. Bà nằm mơ như vậy thì đúng là thằng Summer con bà đang bị vùi ở đây thật rồi và nó đã gặp được bà rồi đấy. Thế là bà sẽ đón được con bà về với bà. Tôi mừng cho bà.
HAI MƯƠI HAI
Sớm tinh mơ, cánh đồng làng Thường Xuân còn mờ mịt trong màn sương và lá cỏ còn ướt đẫm sương đêm. Những lùm cây rải rác trên cánh đồng nổi lên đậm nhạt trong màn sương trắng đục như những ngọn núi gần, xa trong biển mây, như những hòn đảo lô xô trên biển sương. Trong màn sương mờ mịt, xuất hiện đoàn ô tô chạy trên con đường vắt qua cánh đồng hướng về làng Thường Xuân. Đi đầu là hai chiếc ô tô con quen thuộc đã đến Thường Xuân mấy hôm trước. Chiếc ô tô com-măng-ca nhà binh màu xám và chiếc ô tô du lịch màu đen. Tiếp sau là chiếc xe ca chở hơn chục người Mỹ. Mỹ trắng, Mỹ đen đều mặc đồ dân sự nhưng đều là lính công binh trong đội quân MIA đi khai quật tìm hài cốt lính Mỹ còn mất tích ở chiến trường Đông Dương. Chiếc xe cần cẩu và ba chiếc xe tải lớn nối sau. Trên thùng chiếc xe tải sau cùng ngất ngưởng chiếc máy xúc bánh xích.
Đoàn xe dừng lại trước cổng nhà bà Đằm. Trên chiếc xe du lịch vẫn là hai người Mỹ ở đoàn MIA, ông Robert, ông Alex và cô gái hôm trước nhưng hôm nay cô không mặc áo dài màu hoàng yến mà cô mặc váy đầm màu cam. Còn trên chiếc com-măng-ca quân sự chỉ có đại tá Huy Toàn. Bốn người rời khỏi hai chiếc xe con, còn những người trên xe ca vẫn ngồi yên trong xe. Bước qua cánh cổng mở rộng, bốn người dừng lại trên mảnh sân đã bóc hết những viên gạch vuông Bát Tràng lát sân. Họ ngơ nhác nhìn vào các phòng trống hơ trống hoác như ngôi nhà hoang vì cửa lớn, cửa nhỏ đều đã tháo đi và trong phòng không còn thứ vật dụng gì. Sàn lát gạch men mới nguyên còn bóng loáng. Gạch men mỏng, phải có thợ chuyên nghiệp bóc mới còn lành lặn. Thợ vườn bóc lại thành gạch vụn, thôi đành bỏ lại. Khách đang ngơ ngác nhìn quanh tìm kiếm chủ nhà thì tiếng lão Hưỡu lanh lảnh:
- Suốt đêm qua cả nhà thức chuyển đồ ra khỏi ngôi nhà mới vừa vào ở chưa ấm chỗ để giao nhà cho các ông phá. Gần sáng mới chuyển hết đồ. Mọi người vừa mới chợp mắt. Ông chủ nhà đang ngủ bờ, ngủ bụi kia kìa.
Từ ngoài cổng đi vào, Lão Hưỡu chỉ tay về phía bụi tre cuối vườn. Dưới tán tre, mái tăng căng lên như cánh buồm. Dưới mái tăng, Mạnh vẫn đang say giấc trên cánh võng lắt lẻo bên cạnh đống đồ chất cao phủ tấm ni lông lớn. Lão Hưỡu lại sang sảng:
- Còn bà Đằm, cô Thắm và hai đứa trẻ con thì sang ở tạm bên nhà tôi. Các ông thấy chưa? Nhà vừa xây xong lại phải phá đi. Lại màn trời chiếu đất. Lại ăn bờ, ngủ bụi. Lại sống tạm bợ, lay lắt. Lại ăn nhờ ở đậu. Biết đến bao giờ mới lại có được căn nhà yên ấm để an cư lạc nghiệp. Bà Đằm làng tôi lận đận thế đấy mà vẫn thanh thản, nhẹ nhàng như không. Hiếm có người nào được như bà Đằm làng tôi. Các ông muốn gặp bà Đằm thì sang nhà tôi.
Đại tá Huy Toàn nói:
- Chúng tôi đã hẹn sẽ đến thăm ngôi nhà to nhất làng Thường Xuân của lão như lão nói mà chưa đến được. Hôm nay chúng tôi mới có dịp đến thăm nhà lão đây.
Lão Hưỡu lại càng cao giọng:
- Bà Đằm là người khổ nhất làng thì tôi là người sướng nhất làng. Nhà tôi là ngôi nhà bền vững nhất làng, lâu đời nhất làng, độc đáo có một không hai ở làng này, đáng thăm nhất làng thì các ông lại không thèm đến. Tôi phải năn nỉ mời mới được các ông chiếu cố. Nào mời các ông về nhà tôi.
Lão Hưỡu xăm xắn đi trước. Mấy người vội bước theo lão. Thấy lão rẽ vào ngõ nhỏ và ngắn của ngôi nhà tranh lụp xụp, đại tá Huy Toàn đứng lại hỏi:
- Lão vào đó làm gì thế? Vào nhanh lên nhé. Chúng tôi đứng đây đợi.
Lão Hưỡu cũng đứng lại hỏi:
- Các ông định đến nhà tôi hay định đi đâu?
Đại tá Huy Toàn nói rành rọt:
- Chúng tôi đến nhà lão, gặp bà Đằm để làm việc chứ không la cà được.
Lão Hưỡu cũng rành rọt:
- Đến nhà tôi gặp bà Đằm thì mời các ông vào đây. Nhà tôi đây.
Đại tá Huy Toàn như chợt hiểu ra, mỉm cười lắc đầu:
- Trời đất! Đúng là lão Hưỡu. Lão bảo nhà lão bền vững nhất làng, lâu đời nhất làng, độc đáo có một không hai tưởng là nhà lão hoành tráng, nguy nga, lộng lẫy lắm, hóa ra là ngôi nhà này.
Lão Hưỡu lí sự:
- Ngôi nhà tranh vách đất là ngôi nhà có từ ngàn đời xưa ở làng quê Việt Nam thì là ngôi nhà lâu đời nhất chứ còn gì nữa. Người ta vẫn bảo nhà tôi là nhà chị Dậu. Các ông có biết nhà chị Dậu có từ bao giờ không? Có từ trước cách mạng tháng tám năm một ngàn chín trăm bốn mươi nhăm. Lâu đời đến thế còn gì nữa. Bền vững đến thế còn gì nữa. Ngôi nhà bền vững tồn tại suốt từ thời phong kiến, qua thời thực dân đế quốc đến thời xã hội chủ nghĩa hôm nay, thời gian dài rộng đến thế, có ngôi nhà nào so được với nhà tôi không? Các ông đi khắp làng này xem có còn ngôi nhà tranh vách đất nào không? Không nơi nào có đâu. Thế nên ngôi nhà tranh vách đất của tôi là ngôi nhà độc đáo có một không hai chứ còn gì nữa.
Lão Hưỡu ngân nga:
- Nhà tranh vách đất thanh nhàn. Không ham hố, không mưu toan nhọc lòng. Đi về sơm tối thong dong. Cửa nẻo không khép, trong lòng thảnh thơi. Các ông thấy ở nhà tranh vách đất có sướng không?
Nếu không có bà Đằm xuất hiện thì lão Hưỡu còn thao thao. Bà Đằm bước ra cửa ngắt lời lão Hưỡu:
- Các ông đến sớm thế. Mời các ông vào nhà đi. Đứng cả ngoài ngõ mà nghe lão Hưỡu nói thì các ông đứng đến tối chưa nghe hết chuyện của lão.
Ông Robert và cô phiên dịch mặc váy màu cam đến trước bà Đằm:
- Chúng tôi đến để thưa với bà cho chúng tôi được triển khai công việc.
Bà Đằm nhẹ nhàng:
- Trời ơi, mọi điều các ông cần, chúng tôi đều đã thuận lòng rồi. Các ông cứ lo việc của các ông cho xong sớm đi cho chúng tôi sớm ổn định cuộc sống. Việc của các ông xong sớm được ngày nào thì chúng tôi được trở lại bình yên sớm ngày đó. Cả đêm qua chúng tôi đã chuyển hết đồ ra khỏi nhà rồi. Xong phần việc của chúng tôi đến phần việc của các ông thì các ông cứ làm.
Ông Robert nói:
- Chúng tôi gặp bà có lời thưa với bà cho chúng tôi bắt đầu công việc. Cảm ơn tấm lòng cao cả của bà dành cho chúng tôi.
Ông Robert đến bắt tay và cảm ơn lão Hưỡu rồi định vội vã quay trở ra nhưng lão Hưỡu nắm chặt tay ông Robert giữ lại, nói:
- Này, ông trông to béo thế mà không khỏe đâu nhé. Bàn tay mềm như bàn tay bà già thì sức khỏe, sức bền kém lắm đấy. Ông phải liệu mà giữ sức và cầu Chúa cho ông có được sức sống dẻo dai.
Ông Robert vòng tay ôm lão Hưỡu, kêu lên:
- Ồ, lão nói đúng quá. Tôi bị bệnh cao huyết áp, sức khỏe rất kém, sức bền lại càng kém. Cảm ơn lời khuyên của lão.
Đại tá Huy Toàn đến bên, đợi ông Robert thả tay lão Hưỡu ra liền nắm tay lão:
- Nào, cho tôi bắt tay để nhờ lão xem tôi có bệnh gì không?
Lão Hưỡu nắm tay đại tá Toàn và nói:
- Bệnh cuả anh nhẹ thôi nhưng không chữa được nữa, đã an bài rồi. Thôi, Trời cho gì được nấy, cho sao được vậy. Đành lòng vậy.
Đại tá Huy Toàn lo lắng hỏi:
- Bệnh gì mà đã an bài thành mãn tính, đành chịu vậy lão?
- Bệnh không có con trai.
Đại tá Huy Toàn giật mình:
- Trời ơi! Sao lão thánh thế? Đúng là tôi mong có thằng con trai mà vợ tôi chỉ đẻ cho tôi ba đứa con gái.
Lão Hưỡu thủng thẳng:
- Thánh tướng gì đâu. Nhìn hoàn cảnh anh, nhìn dáng hấp tấp của anh là tôi biết liền. Bộ đội thời chiến, xa nhà biền biệt. Những lần tạt về nhà gặp vợ chớp nhoáng, lần nào cũng hồi hộp, hấp tấp, cuống cuồng như anh lính mới tò te lần đầu lâm trận. Lính cao xạ vừa nhìn thấy máy bay đã cuống cuồng vãi đạn lên giời thì làm sao hạ được máy bay. Anh có được ba đứa con gái cũng là may rồi. Phải như đám lính của anh với mấy đứa con gái du kích làng tôi đó, suốt ngày đêm họ dính với nhau mới đẻ được con trai. Mấy đứa con gái làng tôi toàn đẻ con trai cho lính của anh. Này, tôi hỏi thật anh nhé. Thời anh còn là lính trơn chưa phải giữ bộ mặt đạo mạo của chính uỷ, chưa phải gọi mấy cô du kích mơn mởn xinh tươi là đồng chí mà ngọt ngào em em, anh anh, anh có gửi ở đâu đứa con nào không? đứa con rơi, con vãi ấy chắc chắn là con trai đấy. Anh về những làng quê đã đóng quân mà tìm con trai anh...
- A, bà Mary đến kìa!
Tiếng reo đột ngột của bà Đằm cắt ngang lời lão Hưỡu:
Mọi người quay nhìn bà Mary, Tom và cô phiên dịch đang bước nhanh đến chỗ bà Đằm. Bà Mary thân thiết ôm chầm lấy bà Đằm.
HAI MƯƠI BA
Bà Đằm dẫn bà Mary trở về mảnh vườn của nhà bà, đến bên đống đồ chồng chất dưới bóng tre cuối vườn. Mạnh đã thức dậy tháo võng cất đi nhưng mái tăng vẫn đang phập phồng gió. Nhìn thấy chiếc bàn nhựa để bên ngoài đống đồ phủ ni lông, bà Đằm bảo Mạnh:
- Con lấy chiếc bàn kia đặt đây cho mẹ. Nếu bà Mary tìm thấy con thì mẹ bày cái lễ tiễn cậu ấy được thanh thản rời mảnh đất nhà mình. Đồ lễ mẹ đã sắp sẵn rồi nhưng để bên nhà lão Hưỡu. Con sang nhà lão mang về đây cho mẹ.
Mạnh lấy hai chiếc ghế nhựa trắng cho hai bà già ngồi rồi mới làm những việc bà mẹ vợ sai khiến.
Khu đất nhà bà Đằm đã trở thành một công trường ngổn ngang xe cộ, máy móc, ầm ầm tiếng máy, rầm rập bước chân. Dưới sự chỉ huy của ông Alex, chiếc máy xúc trên thùng ô tô được cần cẩu đưa xuống đất. Những cột bê tông của toà nhà ba tầng đã được máy cắt bê tông trong tay người Mỹ cắt gần đứt sát mặt đất. Một người Mỹ da đen trèo lên máy xúc. Chiếc máy xúc gầm gừ, vòng xích chuyển động đưa máy xúc đến gần toà nhà. Cánh tay gầu xúc vươn xa, đưa gầu xúc ra xa toà nhà rồi từ xa, gầu xúc lao vào sàn bê tông toà nhà. Chỉ ba cú quật của gầu súc, toà nhà đổ sập, bụi bốc lên mù mịt như vụ nổ bom. Ngôi nhà ba tầng mới xây trở thành đống gạch vụn.
Đội quân MIA hối hả chuyển đống gạch vụn ra xa tạo ra mặt bằng thoáng rộng cho cuộc đào bới. Chiếc máy xúc tiến ra mảnh vườn. Gàu xúc hạ xuống đất vườn, múc mui đất đầu tiên lên đổ vào thùng xe tải. Thùng xe đầy đất, người Mỹ da trắng ngồi trong ca bin liền cho xe chạy đến sân kho rộng của hợp tác xã. Hai người Mỹ da trắng cầm xẻng trèo lên thùng xe xúc đất hất xuống băng chuyển đất dài như băng chuyển than ở mỏ than Cẩm Phả. Băng chuyển đất rót đất vào máy sàng. Máy sàng rào rào rung lắc đánh tơi đất, loại bỏ đất cát, giữ lại những gì không thể đánh tơi được.
Sau sàng lọc của máy đến chọn lọc của mấy người Mỹ loại bỏ những gạch, đá, cành cây, những gì còn lại được đưa đến căn nhà bạt của ông Robert đã được mấy người Mỹ dựng lên ở hè nhà kho. Đầu tiên ông Robert chỉ nhận được những mẩu kim loại, những đoạn dây điện. Ông Robert xác định kim loại và dây điện đều là thành phần của máy bay Mỹ càng làm cho những người khai quật khấp khởi hi vọng.
Thấy xác máy bay rồi! Tiếng reo cất lên khi máy xúc múc đất sâu dưới nền ngôi nhà mới vừa phá đi, gầu xúc vấp vào khối kim loại lớn không thể nào múc cả khối kim loại lên được. Tiếng reo làm cho bà Mary vội vàng chạy đến bên hố khai quật nhưng nào có thấy gì đâu. Nhìn xuống hố khai quật ngay giữa nền nhà sâu lút đầu người chỉ thấy bùn đen và những mạch nước xối xả. Gầu xúc tiếp tục múc đất quanh khối kim loại rồi ông Alex cho năm người Mỹ mang xẻng tụt xuống hố sâu khoét đất và tìm chỗ móc dây cẩu vào khối kim loại. Phần đầu máy bay có khoang trống của tổ lái đã lộ ra. Cả sải cánh dài hơn chục mét còn chìm sâu trong đất thì không có chiếc cần cẩu nào đủ sức lôi lên được. Lại phải tháo ốc, cưa cắt để cẩu lên từng phần cánh máy bay.
Phần đầu của chiếc máy bay xấu số được lôi lên nhưng không thể cho cả khối kim loại vào máy sàng, những người Mỹ lại phải mang găng tay cao su móc đất ra từ trong những hốc, những khoảng trống của khối kim loại và họ liên tiếp móc ra những mẩu, những khúc xương. Một thùng nước được xách đến. Những khúc xương được rửa sạch rồi xếp lên tấm ni lông trải trên đất.
Bà Mary quì gối trên đất nhìn chăm chăm những khúc xương trắng màu thạch cao sắp xếp theo vị trí cơ thể con người và đã gần đủ hình hài một con người vai rộng thân cao. Lại có tiếng reo:
- Cái gì thế này? A, chiếc lắc ở cổ tay.
Bà Mary bật đứng lên bước đến cầm chiếc lắc từ tay một người Mỹ. Bà lấy tay gạt bùn đất và kéo vội vạt áo lau sạch mặt lắc. Nhìn thấy hình khắc Nữ thần Tự do và hàng chữ BEGINNING IN USA, Khởi đầu ở nước Mỹ, bà thốt kêu lên:
- Ôi Summer con tôi! Đúng thằng Summer của tôi đây rồi.
Bà Mary ấp chiếc lắc vào ngực. Bà Đằm đến bên nhỏ nhẹ:
- Bà thấy thằng Sâm-mơ con bà rồi phải không? Bà thấy tôi nói có đúng không? Thế nào bà cũng tìm được con mà.
Bà Mary đưa cho bà Đằm chiếc lắc:
- Chiếc lắc con tôi vẫn đeo ở tay đấy bà ạ!
Bà Đằm nói:
- Tôi mừng cho bà đã tìm được con!
Tự nhiên nước mắt bà Đằm ứa ra. Bà Mary ôm lấy bà Đằm, nước mắt cũng ràn rụa.
Tom đến nhìn chiếc lắc vừa tìm thấy trên tay bà Đằm rồi anh tháo chiếc lắc anh đang đeo ở cổ tay đưa cho bà Đằm:
- Một thế hệ người Mỹ bị đánh mất trong cuộc chiến tranh vô nghĩa. Chỉ còn những mẩu xương và chiếc lắc ghi nhận sự có mặt một thế hệ người Mỹ!
Mấy người Mỹ lại đưa đến cho bà Mary một hộp sọ còn đầy bùn đất vừa tìm thấy trong khối kim loại. Bà Mary hai tay ôm hộp sọ vào ngực, kêu:
- Summer!
Nước mắt vẫn tràn trên má, bà Đằm bảo bà Mary:
- Bà đưa hộp sọ thằng Sâm-mơ cho tôi.
Đỡ hộp sọ từ tay bà Mary, bà Đằm bảo bà Mary:
- Bà để tôi tắm rửa phần xác và tắm rửa cả phần hồn cho con trai bà để nó được thanh thoát trở về nước Mỹ với bà và nó được siêu thoát nơi vĩnh hằng.
Rửa hộp sọ trong thùng nước giếng rồi bà Đằm bảo Mạnh mang đến cho bà can rượu quê bà đã mua hôm trước. Hộp sọ và những mẩu xương tìm thấy trong khoang máy bay đã được rửa sạch bằng nước giếng được bà Đằm đặt vào chiếc chậu nhôm. Thấy bà Đằm rót rượu vào chậu rửa hộp sọ và những mẩu xương trong chậu rượu, bà Mary cũng ngồi xuống tỉ mẩn rửa từng mẩu xương với bà Đằm.
Hai bà già, hai người mẹ Việt Nam và Mỹ đặt hộp sọ trên chiếc bàn đã có hoa, quả cây, bát nhang. Mạnh thắp cây đèn dầu đưa đến đặt trên bàn và trải chiếu ra trước bàn lễ.
Bà Đằm đốt lửa thắp nhang rồi ngồi xuống chiếu lầm rầm khấn khứa. Đang ngồi cạnh bà Đằm, bỗng bà Mary chồm về phía trước ôm lấy hộp sọ như sợ đứa con chỉ còn hộp sọ và mấy khúc xương lại mất một lần nữa. Ôm hộp sọ con trai trước ngực, bà Mary lại ngồi lặng lẽ bên bà Đằm, nghe bà Đằm rì rấm cầu khấn.
Phía sau hai ngươi mẹ mất mát là lão Hưỡu, chị Lành, vợ chồng Mạnh, Thắm, đại tá Huy Toàn, ông Robert, ông Alex và những người Mỹ tay còn lấm lem bùn đất đứng thành hàng dài lặng lẽ.