Thái Hạo
1.
Xuất bản năm 1990 với tên gọi “Thân phận của tình yêu” (cái tên do Nguyễn Phan Hách đặt), ngay năm sau tác phẩm này đoạt giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam, cùng với Bến không chồng của Dương Hướng và Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường.
Vừa ra đời và được xếp giải, Nỗi buồn chiến tranh đã gây dư luận sôi nổi. Ngày 24.8.1991 Báo Văn nghệ tổ chức một cuộc Thảo luận về tác phẩm này, với sự góp mặt của nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu - phê bình tên tuổi. Có nhiều người dành những lời khen ngợi nồng nhiệt cho Nỗi buồn chiến tranh, như Nguyên Ngọc, Trần Đình Sử, Phạm Tiến Duật; cũng có những người “khen có kiểm duyệt” như Cao Tiến Lê, Lê Quang Trang, Vũ Tú Nam, Chu Lai; có những người “chê thật lực” như Vũ Quần Phương. Nhưng nhìn chung, ngay trong cuộc Thảo luận này, âm hưởng tán thưởng vẫn là chủ đạo, những “hạn chế” nếu được nêu lên cũng là khá dè dặt và có chừng mực, chủ yếu mang tính “lưu ý”, “giá như”, “nếu mà”...
Ngoài cuộc Thảo luận nói trên, cũng trong năm 1991 đã có nhiều bài viết phê phán nặng nề Nỗi buồn chiến tranh, như bài “Nghĩ gì khi đọc Thân phận của tình yêu” của Đỗ Văn Khang. Phạm Xuân Nguyên liền sau đó đã cho đăng “Nghĩ gì khi đọc Nghĩ gì khi đọc Thân phận của tình yêu”, đáp trả một cách đanh thép những lập luận của Đỗ Văn Khang. Các bài viết của những giáo sư uy tín như Hoàng Ngọc Hiến, Đỗ Đức Hiểu cũng hết mực đề cao Nỗi buồn chiến tranh như một thành tựu tiểu thuyết của Việt Nam.
Có lẽ Nỗi buồn chiến tranh chỉ thực sự bị “phong sát” sau khi tác phẩm được dịch ra tiếng Anh và Bảo Ninh trả lời báo chí nước ngoài.
Năm 1994 Tạp chí Cộng Sản, lúc đó do Nguyễn Phú Trọng làm Tổng biên tập, đã đăng bài “Từ đâu đến Nỗi buồn chiến tranh” của tác giả Trần Duy Châu. Bài viết này đã quy kết cho Nỗi buồn chiến tranh những tính từ nặng nề và những nhận định gai người về “màu sắc chính trị”: “Gần đây Nỗi buồn chiến tranh được một số tờ báo nước Anh trao giải thưởng trên cơ sở bản dịch tiếng Anh của một dịch giả người Anh, dường như có ý muốn xóa nhòa ranh giới giữa chiến tranh cứu nước và chiến tranh xâm lược.”
Bài viết có những câu: “Bằng sự bôi nhọ sự nghiệp chống Mỹ của nhân dân ta, Bảo Ninh không chỉ xúc phạm đến những người đang sống, đang tiếp tục đi theo con đường lớn mà cuộc chiến tranh cách mạng đã tạo nên một "đột phá khẩu", "một cái đã sống" để đi lên và đi xa. Tác giả Nỗi buồn chiến tranh còn muốn giết chết hẳn những người đã vĩnh viễn nằm xuống để cho "dân tộc quyết sinh".”
Tờ Công an TPHCM năm 1995 đã tổ chức một “chuyên đề” về Nỗi buồn chiến tranh, ở đó ngoài phỏng vấn/chất vấn các vị trong Ban giám khảo đã trao giải cho tác phẩm này thì còn đăng nhiều bài ghê gớm không thua gì bài của Trần Duy Châu trên Tạp chí Cộng Sản trước đó 1 năm.
Các vị giám khảo, có lẽ vì không khí đáng sợ lúc đó và trước cuộc truy vấn ráo riết của Báo Công an TPHCM nên đã nói bằng giọng “sám hối”, không ai bảo ai mà đồng loạt phát biểu, đại ý rằng, dù biết tác phẩm còn nhiều hạn chế nhưng vì Bảo Ninh là tác giả trẻ, trao giải để khuyến khích và hi vọng, nhưng không ngờ… Nguyễn Quang Sáng nói: “việc trao giải cho Thân phận của tình yêu (Nỗi buồn chiến tranh) năm 1991 là thiếu chín chắn, nặng về khuyến khích một cây bút trẻ đã trải qua chiến đấu, mà coi nhẹ tính định hướng của giải thưởng”. Nguyễn Khải phân trần: “Chúng tôi cũng có bàn nhiều tới mặt yếu kém của từng tác phẩm, nhất là cuốn Nỗi buồn chiến tranh vì cách nhìn chiến tranh của tác giả còn phiến diện và cái không khí ngột ngạt, u ám bàng bạc trong nhiều chương sách. Riêng tôi thì nghĩ đây là tác phẩm đầu tay của một tác giả còn trẻ. Nếu được khuyến khích thì anh ta sẽ nhanh chóng khắc phục được cách nhìn chủ quan, hạn hẹn của tác phẩm đầu.”…
Giải thưởng trao cho Nỗi buồn chiến tranh bị thu hồi trong lặng lẽ (?)
Từ năm 1993 đến 2005, Nỗi buồn chiến tranh bị cấm.
Sau khi tái xuất, từ 2006 đến nay tác phẩm này được tái bản khoảng 30 lần và được dịch ra khoảng 20 thứ tiếng trên thế giới, nhận nhiều giải thưởng quốc tế.
Sáng 30-11-2025, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tổ chức công bố bình chọn 50 tác phẩm văn học, nghệ thuật biểu diễn Việt Nam tiêu biểu, xuất sắc sau ngày đất nước thống nhất (1975 - 2025), trong đó có Nỗi buồn chiến tranh. Từ đây, cuộc tranh luận lại bùng lên. Mở màn và “tạo tiếng vang” có lẽ là từ mấy chữ lộn xộn chính tả của Trung tướng về hưu Nguyễn Thanh Tuấn – cựu Cục trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam – trên facebook cá nhân, thể hiện sự đau buồn và yêu cầu “thu hồi giải thưởng” dành cho Nỗi buồn chiến tranh.
Dư luận mỗi lúc một rầm rộ, nhất là khi đề cập đến việc Nỗi buồn chiến tranh đã được đưa vào sách giáo khoa lớp 12 chương trình 2018.
Hiện, cuộc tranh luận và những ý kiến trái chiều vẫn chưa hạ nhiệt.
2.
Đã gần 40 năm trôi qua kể từ khi xuất hiện trên báo chí (và sau đó in thành sách), Nỗi buồn chiến tranh vẫn gây tranh cãi mỗi khi được chú ý đến. Tuy nhiên, quan sát phản ứng của “dư luận” thì thấy rằng, tuy dường như bao giờ cũng sục sôi nhưng tính chất thì có sự thay đổi.
- Khi tác phẩm mới được in và nhận giải thưởng (1991), tuy có “chê” nhưng không phải tone chính, âm hưởng đề cao như một thành tựu văn học vẫn là chủ đạo.
Kể từ khi khen chê bị “chính trị hóa” trong đánh giá (có thể tính từ bài của Trần Duy Châu trên Tạp chí Cộng sản năm 1994), nó mới chính thức bị phong sát. Nhưng rồi lại âm thầm trở lại, một cách đầy sức sống.
- Nếu ở những năm 90 của thế kỷ trước, Nỗi buồn chiến tranh bị phê phán, dù nặng hay nhẹ thì vẫn có sự tham gia của những nhân vật “có tên tuổi” trong văn giới và giới nghiên cứu – phê bình; thì ở lần này (2025), những chỉ trích chủ yếu đến từ người ngoài, những người không có chuyên môn, phần lớn là vô danh. Tôi chưa gặp một bài chỉ trích nào từ những nhà văn, nhà thơ hay nhà nghiên cứu văn học. Điều này khác hoàn toàn với tình hình cách đây hơn 30 năm.
- Nay, những người phát động cuộc phê phán mà đầu tiên và “có uy tín nhất” lại là một tướng quân đội viết Nỗi thành “nổi”, Bảo thành “Bão”, rồi đến đỉnh cao là một cái "đơn kiến nghị" của một ông Phan Trung Can nào đó gửi "cơ quan có thẩm quyền" đòi chứng minh các chi tiết trong tác phẩm! Và từ đó, tiếp tục kéo theo những người/trang vốn quen thuộc trong phong trào “chống lật sử” mà cư dân mạng hay gọi là DLV. Bên cạnh đó là rất đông công chúng bình dân không thuộc giới chuyên môn.
Như vậy, nếu chỉ nhìn bề ngoài của các làn sóng dư luận suốt mấy chục năm qua, khiến người ta dễ tuyệt vọng về dân trí và năng lực văn chương cũng như bản lĩnh của giới “làm văn”. Nhưng nếu nhìn sâu hơn, quan sát kỹ hơn, thì thấy rằng đã có một sự chuyển biến về chất. Không có những nhà văn chuyên nghiệp hay những nhà chuyên môn có tên tuổi lên tiếng chỉ trích Nỗi buồn chiến tranh như hồi những năm 90 nữa. Có lẽ sự ấu trĩ đã qua đi? Và có lẽ, giới cầm bút cũng đã vượt qua được nỗi sợ hãi?
Cũng quan sát để thấy rằng, nếu trước đây, báo chí chính thống giữ vai trò chủ đạo trong cuộc “phong sát”, thì ở lần này, chưa thấy một tờ báo nào hành xử theo lối cũ nữa, tất cả đều hoặc giữ tinh thần trung lập hoặc đứng về phía Nỗi buồn chiến tranh. Đó là biểu hiện của một sự chín và trưởng thành chăng?
Các cơ quan nhà nước như Bộ VH-TT-DL, Bộ GD-ĐT, các tác giả SGK, hay hội đoàn như Hội nhà văn cũng ứng xử khác hẳn. Nêu trước kia là “sám hối”, “ân hận” và “sửa sai” thì nay chưa thấy bất kỳ động thái nào theo kiểu đó, mà ngược lại: họ tự tin và dõng dạc cất lên tiếng nói tự bảo vệ sự lựa chọn của mình.
Thậm chí, trước những phản ứng của dư luận về NBCT, đương kim chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều, ngày 2.12 đã viết trên facebook cá nhân trong bài “Chúng ta còn thù hận đến bao giờ”, gián tiếp phê phán cái dư luận kia với lời lẽ không kiêng dè: “Nếu chúng ta tiếp tục hận thù thì chúng ta sẽ mãi đi lòng vòng trong đầm lầy. Và hận thù nếu không được giải thoát khỏi con người nó sẽ trở thành căn bệnh "ung thư tâm hồn" của một người hay của cả một dân tộc. Thời gian đã thắp sáng con đường mỗi dân tộc đang đi và hướng về phía trước trong khi một số kẻ vẫn chìm trong bóng tối u mê”.
Vâng, cuộc phản đối lần này tuy vẫn ồn ào, thậm chí ồn ào hơn, nhưng khác hẳn về tính chất so với những lần trước. Đó là dấu hiệu cho thấy đã có những thay đổi nhất định trong chiều sâu xã hội. Và nó cũng cho thấy rằng, mỗi sự đổi thay trong lòng xã hội luôn thật khó khăn, lâu dài và gian nan; nhưng nhất định phải thay đổi, theo chiều hướng tốt hơn, văn minh hơn…
T. H