Tạp bút Đặng Văn Sinh
"Tiếng diều xanh lúa
Uốn cong tre làng"[1]
Tôi ngồi trên phiến đá, trước đây vốn là cái quán nhỏ của bà cụ Mận bán quà bánh cho khách chờ đò ngang qua sông Cái. Nhưng tôi không mấy để ý đến con sông mùa lũ đầy ắp thuyền bè qua lại, mà quay lưng ngắm hoàng hôn đang loang dần khắp mấy quả đồi lúp xúp mọc toàn sim mua. Bầu trời không một gợn mây và sáng lạ lùng, cứ như cố tình muốn kéo dài cảnh chiều tà đầy mê hoặc của mùa hạ miền trung du. Ở đâu đó, có tiếng sáo ngân nga lúc khoan lúc nhặt khiến tôi phải nghển cổ, dõi mắt cố tìm xem con diều của ai đó đang lơ lửng trên chín tầng trời, thả vào không gian những thanh âm đầy quyến rũ của giai điệu đồng quê.
Tôi là một kẻ hay hoài cổ. Những gì thuộc về quá khứ, nhất là chuyện thời thơ ấu đều nhớ nằm lòng. Một trong số đó là cảnh thả diều trên cánh đồng làng. Tôi sinh ra và lớn lên không phải ở vùng bán sơn địa mà là một làng quê đồng bằng sông Hồng. Làng cổ ấy được gọi là Kẻ Nhoi bên con sông mang cái tên tên nửa Hán nửa Nôm là Cổ Cháy, nơi có nghề làm diều nổi tiếng khắp hạt Sơn Nam Hạ từ thời Lê Trung hưng.
Tuy nhiên, sự nổi tiếng ấy không phải ở cung cách làm diều mô phỏng hình dạng rồng phượng, bướm, chim, cá hay hoa lá trang trí lòe loẹt phẩm xanh đỏ tím vàng như các nghệ nhân cung đình xứ Thần kinh. Kích cỡ và cấu trúc của con diều được chế tác theo định hướng về cái đẹp của người nhà quê, không hoa hòe hoa sói, không vòng vèo uốn lượn mà thiên về sự khỏe mạnh của chàng lực điền với trò chơi đấu vật hay đối nhau những miếng võ trong lễ hội dân gian truyền thống.
Làng tuy rộng nhưng trồng bạt ngàn tre, trúc lại thêm hàng chục cây muỗm bên đầm Cổ Hạc nên mỗi khi hè về lũ trẻ con đều có cảm giác như đang sống trong một không gian xanh khép kín. Trong không gian có phần âm u ấy, nghe tiếng sáo từ chín tầng trời vọng về, không ít kẻ lãng du thích xê dịch, tâm hồn đa cảm, bất chợt như bị thôi miên, quên mất mình là người, biến thành một điểm linh hồn bay lên với các vì sao lắng nghe khúc thiên thai…
Còn nhớ, vào một trưa hè, tôi đang nằm võng dưới lùm tre cạnh bờ ao đọc cuốn Cung oán ngâm khúc của cụ Nguyễn Gia Thiều, chợt nghe có tiếng ve ve đâu đó rất gần. Đó là âm thanh của chiếc màng trên con diều nhỏ đang được kéo xuống hoặc là dây bị đứt. Tôi nhỏm dậy nhìn quanh. Đúng là con diều đứt dây đang treo lơ lửng trên cành tre bên kia bờ ao. Chỉ ít phút sau, thằng Thiện, đầu húi trọc như chú tiểu chùa Hàng, mình trần, quần ống thấp ống cao, đẩy cánh cổng tre bước vào hỏi: "Con diều của em đứt dây bay vào làng, anh có nhìn thấy không?". Tôi chỉ tay ra phía bờ ao: "Nó vừa rơi xuống ngọn tre nhà anh. Cậu trèo lên mà gỡ, cẩn thận không lại ngã".
Thật ra, diều đứt dây phần lớn của trẻ con, đều là loại nhỏ, chiều dài chừng bốn, năm mươi phân, thả bằng dây gai mua ở chợ Rồng. Thứ gai này thường rất mảnh, xe bằng sợi đay, dùng hơn chục lần là xuống cấp. Thời kỳ tôi còn ở làng Đoài, trẻ con đứa nào cũng biết làm diều nhưng quanh đi quẩn lại chỉ mấy loại diều đuôi, diều cánh cốc, diều cánh phản và diều ống. Cánh cốc là diều đàn bà, phần đuôi xòe ra như cái váy. Đơn giản nhất là diều ống, chẳng cần khung, chỉ cần chia tờ giấy làm ba phần, gấp lại, dán đuôi, buộc lèo, nối dây cho đám nhóc năm, sáu tuổi cầm chạy là xong.
Nguyên liệu làm diều là nan tre, giấy bản và nhựa sung. Tre thì nhà ai cũng có, tha hồ chặt. Giấy bản mua ở chợ Phủ. Đứa không tiền thì xé trộm vài tờ trong các bộ sách nhữ nho của ông nội. Trưa hè, nhiều thằng cầm dao và bát đi vòng quanh làng, phát hiện nhà nào có cây sung liền vạch hàng tre chui vào, mắt trước mắt sau không thấy người là băm nhẹ lớp vỏ rồi hứng cho nhựa chảy xuống bát. Vì trò chơi diều, thời ấy, tất cả những cây sung trong làng, từ cổ thụ đến bé tí teo đều bị vết dao băm sần sùi như cóc gặm, vậy mà chúng vẫn sai quả mới lạ.
Nghề chơi diều làng Đoài không chỉ trai đinh mà còn có cả những ông già tuổi ngũ, lục tuần rất giỏi làm loại siêu diều bằng chiếc thuyền đánh lưới bén. Quá trình chế tác đương nhiên không đơn giản mà khó khăn nhất vẫn là chọn tre cho phù hợp với kích cỡ ngoại hạng. Khung diều phải là loại tre già, ít mấu, mà lại phải dẻo, độ đàn hồi cao để khi uốn cong không bị gãy. Muốn diều bay lên cao phải được thiết kế phù hợp với nguyên lý khí động học. Diều chính là mô hình vật thể bay tương thích với nguyên lý ấy. Ngoài sự cân đối, hài hòa về cấu tạo khung xương, người ta còn rất chú ý đến độ cong và kỹ thuật dây lèo. Lèo chính là bộ phận quan trọng để điều khiển lúc cất cánh và giữ ổn định khi đã lên đến độ cao hàng trăm mét.
Khác với trẻ con, người lớn không dùng nhựa sung mà dán diều bằng một loại keo của hãng tạp hóa Cự Vân Hải Phòng. Là loại diều quá khổ, người ta không dùng giấy bản mà dán bằng mấy lớp nhật trình[2] rồi quét nước cậy vài lần, khi khô ngả màu cánh gián rất đẹp. Xong phần chính sẽ đến mục lắp sáo. Sáo thì nhiều nhà sản xuất nhưng loại sáo kép ba tầng và hòa âm chuẩn thì chỉ có cửa hàng của anh em nhà Phó Diệm ở chợ Cầu. Thú thực, cho đến giờ tôi vẫn nhớ, bộ sáo to đùng, chiếc nhỏ nhất đường kính cũng cỡ bốn phân, không biết bằng thứ gỗ gì mà nhẹ bẫng như bọt biển, nhưng một khi đã bay vút lên cao, nó ngân vang nhiều giọng, nhiều bè, lúc bổng lúc trầm như bản hòa tấu ngẫu hứng với vô vàn giai điệu giữa lưng chừng trời.
Với kích cỡ siêu hạng như thế, thả diều là vấn đề nan giải. Dây gai quá nhỏ không thể chịu tải trọng. Dây thừng lại quá nặng khiến con diều lắc lư lao qua lao lại, chẳng mấy chốc rơi xuống. Cuối cùng, người ta nghĩ ra cách chẻ cây tre bánh tẻ thành sợi, vót nhẵn, cuộn lại, cho vào nồi đồng đun sôi với nước muối nhạt, sau đó nối lại bằng nút thắt thành cuộn hàng vài trăm mét mà không bao giờ bị tuột. Thật không ngờ, cuộn dây tre tẩm nước muối ấy lại vừa dẻo vừa bền, có thể chịu tải trọng hàng chục cân, lơ lửng giữa từng không, thả xuống thế gian bản hòa tấu vui nhộn cảnh hoàng hôn vùng sông nước.
Ngày ấy, người làng Đoài thường thả diều vào những tháng hè khi vụ chiêm thu hoạch đã xong. Cứ vào khoảng ba, bốn giờ chiều là các nhóm bắt đầu mang đồ chơi ra đồng. Đồng làng thẳng cánh cò bay và khá nhiều gò đống. Những gò đống ấy chẳng biết có từ bao giờ, là nơi cư trú của các bậc tiền nhân từ mấy trăm năm trước nên đều linh thiêng, chẳng ai dám động vào trừ đám người thiên hạ đào ếch. Gò đống chính là vị trí lý tưởng để "đâm" diều. Những con diều, dù thuộc loại siêu trường siêu trọng, nhưng được làm đúng quy cách theo nguyên lý khí động học, chỉ cần đón cơn gió nhẹ, tung mạnh là bay vút lên, và trong khoảnh khắc ấy, tiếng sáo vi vu réo rắt bằng giai điệu riêng của nó mới mê ly, quyến rũ làm sao.
Trong không gian sôi động thời khắc hoàng hôn, hàng chục thậm chí hàng trăm con diều bay lượn từ tầng thấp đến tầng cao của vòm trời mùa hạ thanh bình. Hàng trăm tiếng sáo đủ các cung bậc tham gia màn đại hòa tấu. Mà cũng thật lạ đời, những con diều đủ chủng loại bay ngang bay dọc, tầng thấp tầng cao, đan xen nhau như đàn dơi lao đi kiếm mồi mà không chiếc nào dây vướng vào nhau đủ thấy trình độ điều hành trò chơi của cư dân làng Đoài điêu luyện đến mức nào…
Vào lúc mặt trời vừa tắt, phần lớn bà con cuốn dây hạ diều, nhưng cũng có những tay chơi ngoại hạng thích để qua đêm bằng cách giong về buộc vào cổng làng. Những đêm hè như thế, dân làng tha hồ nghe tiếng sáo với đủ âm vực véo von từ chín tầng trời ngân nga vọng xuống.
Dù đã xa làng Đoài gần hết cuộc đời, nhưng mỗi khi ngồi một mình trên nền ngôi quán cũ, ngắm cảnh hoàng hôn và nghe tiếng sáo cô đơn từ con diều lẻ loi của ai đó mãi phía bên kia dãy đồi lúp xúp, tôi lại chạnh lòng nhớ về cố hương…
Mùa tu hú, Ất Tỵ, tháng trọng hạ
Đ.V.S.
[1] Trích trong bài thơ Thả diều của Trần Đăng Khoa.
[2] Nhật trình (日呈): có mấy nghĩa, trong đó một nghĩa là tờ báo ra hàng ngày.