Nguyễn Man Nhiên
William Stanley Merwin sinh ngày 30/9/1927 tại New York. Ông lớn lên ở thành phố Union (New Jersey) và Scranton (Pennsylvania), là con trai của một mục sư Trưởng Lão, và bắt đầu viết thánh ca từ khi còn nhỏ. Merwin theo học tại Đại học Princeton. Sau khi tốt nghiệp năm 1948, ông đã đi khắp Châu Âu, dạy học và làm dịch thuật tự do. Ông đã sống ở Majorca, London, Pháp, Mexico, Boston và New York.
W. S. Merwin là một nhà thơ Mỹ giành được nhiều sự chú ý cùng lời khen ngợi của công chúng và có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nhà thơ đương đại. Nhà thơ Edward Hirsch đã viết rằng “Merwin là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất trong thời đại chúng ta. Ông là sự hiện diện tinh thần hiếm hoi trong đời sống và văn học Mỹ”. Trong suốt sự nghiệp viết văn dài bảy thập kỷ của mình, Merwin đã khám phá cảm giác ngạc nhiên và tôn vinh sức mạnh của ngôn ngữ, đồng thời đóng vai trò là một nhà hoạt động phản chiến trung thành và ủng hộ môi trường. Tác phẩm của Merwin thể hiện một cam kết táo bạo đối với việc thử nghiệm và chuyển đổi bắt nguồn từ sự cần thiết về mặt đạo đức của việc làm chứng nhân, và chịu ảnh hưởng bởi niềm tin sâu sắc của ông về môi trường, hòa bình và chống chủ nghĩa đế quốc.
W. S. Merwin là tác giả và dịch giả của hơn 50 cuốn sách. Ngoài thơ, ông cũng viết nhiều vở kịch, văn xuôi và hồi ký. Tập thơ đầu tay của Merwin, A Mask for Janus (1952), ngay lập tức đón nhận sự hoan nghênh của giới phê bình và được thi hào W. H. Auden chọn xuất bản cho giải thưởng Yale Series of Younger Poets vì “kỹ thuật điêu luyện, đồng thời tập trung vào hình ảnh cổ điển và thần thoại”. Năm 1956, ông nhận được học bổng viết kịch từ Nhà hát Nhà thơ ở Cambridge (Massachusetts) và chuyển về Hoa Kỳ. Những tập thơ ông viết trong thời gian này, Green with Beasts (1956), The Drunk in the Furnace (1960) và The Moving Target (1963) chứng minh sự khởi đầu của một thay đổi đáng kể trong phong cách và quan điểm. Bài viết của tờ New York Times về quyển The Drunk in the Furnace đã ghi nhận “sự trần tục, gai góc, tính nhân văn trực tiếp đã truyền tải những bài thơ hay nhất”. Năm 1967, Merwin xuất bản tập thơ được giới phê bình đánh giá cao, The Lice, phản ánh nỗi tuyệt vọng của nhà thơ trước sự ngược đãi của con người đối với phần còn lại của tạo vật. Tiếp theo là The Carrier of Ladders (1970), nhờ đó ông đã nhận được Giải Pulitzer. Các tập The Compass Flower (1977), Finding the Islands (1982) và những bài thơ tình trong The Rain in the Trees (1988) được ghi nhận là có những thử nghiệm vần điệu và giọng điệu tích cực hơn. Travels (1993), đề cập đến mối nguy hiểm và khả năng khám phá ở một nơi xa lạ, nhận Giải thưởng Thơ Lenore Marshall. The River Sound (1999) được vinh danh là “cuốn sách đáng chú ý của năm” theo tờ New York Times. Tuyển tập Migration: New & Selected Poems – Giải thưởng Sách Quốc gia năm 2005 – là “lời tiên tri thế tục dựa trên sự tinh tế về mặt nhận thức”, thể hiện sự phát triển trong phong cách thơ của Merwin từ có cấu trúc sang mạch lạc tự do, đồng thời cũng cho thấy ông là một nhà thơ chính trị kiên định, không chỉ theo dõi sự nghèo khó của hành tinh theo nghĩa đen mà còn biến nó thành biểu tượng cho sự nghèo nàn về khả năng biểu tượng hóa của nền văn hóa đương đại. Tiếp đó, tập thơ Present Company (2007) đã mang về cho ông Giải thưởng Bobbitt của Thư viện Quốc hội. Trong The Shadow of Sirius (2008) – đoạt Giải Pulitzer năm 2009, ông khám phá những ký ức nhẹ nhàng, trong sáng thời thơ ấu và những chủ đề phổ quát như cái chết và trí tuệ, cũng là những phần tự truyện hay nhất trong thơ Merwin. Những bài trong The Moon Before Morning (2014) khám phá thời gian và vẻ đẹp của thiên nhiên. Tập thơ cuối cùng của Merwin, Garden Time (2016), được viết bằng cách đọc cho vợ ghi, khi ông đã mất gần hết thị lực. Đó là cuốn sách tập trung vào ký ức, tuổi già và cách sống của một người trong hiện tại. Trên tờ New York Times, Jeff Gordernier gợi ý rằng “Garden Time của Merwin giống như một phần của chuỗi liên tục vượt thời gian, một dòng sông trải dài suốt chặng đường quay trở lại các nhà thơ Hàn Sơn và Lý Bạch.”
Merwin nổi tiếng với phong cách thơ phóng khoáng, trong đó bày tỏ mối quan ngại của mình về sự xa lánh của con người khỏi môi trường. Một số nhà phê bình văn học đã xác định Merwin thuộc nhóm được gọi là các nhà thơ tiên tri, nhưng chính ông đã từng nhận xét: “Tôi chưa phát triển một lý thuyết thẩm mỹ trừu tượng và không ý thức được mình thuộc về bất kỳ nhóm nhà văn cụ thể nào”. Qua nhiều năm, thơ của Merwin chuyển từ giọng điệu trang trọng sang giản dị, rõ ràng hơn. Như tờ Atlantic Monthly đã viết, “Ý tưởng trong thơ Merwin rộng lớn như sinh quyển nhưng lại thân mật như một lời thì thầm. Ông truyền tải bằng sự đơn giản ngọt ngào của ngôn ngữ có nền tảng ý thức về bản thân nơi nó thuộc về, lơ lửng giữa trời, đất và lòng đất.”
Merwin từng được hỏi về vai trò xã hội của một nhà thơ – nếu có – ở Mỹ. Ông nhận xét: “Tôi nghĩ hiện nay có một loại hy vọng được xây dựng trong thơ mà người ta thực sự mong muốn, một cách vô vọng, cứu được thế giới. Người ta đang cố gắng nói tất cả những gì có thể nói về những điều mình yêu thích khi vẫn còn thời gian. Tôi nghĩ đó là một vai trò xã hội, phải không? Chúng ta tiếp tục bày tỏ sự tức giận và tình yêu của mình, và chúng ta hy vọng, có lẽ trong vô vọng, rằng nó sẽ có tác dụng nào đó. Nhưng tôi chắc chắn đã vượt qua nỗi tuyệt vọng, hay tầm nhìn ngu ngốc, nhức nhối mà tôi cảm thấy; người ta không thể chỉ sống trong tuyệt vọng và giận dữ mà cuối cùng không phá hủy được thứ mà người ta tức giận. Thế giới vẫn còn đây và có những khía cạnh trong cuộc sống con người không hoàn toàn mang tính hủy diệt, và cần phải chú ý đến những thứ xung quanh khi chúng vẫn còn ở xung quanh chúng ta. Và bạn biết đấy, theo một cách nào đó, nếu bạn không chú ý đến điều đó thì cơn giận chỉ là sự cay đắng mà thôi.”
Về công việc dịch thuật của Merwin, David Hinton nói: “Nghệ thuật của W. S. Merwin rất được ưa chuộng và giải thưởng này tôn vinh sự khao khát đó. Dịch là có một giọng nói khác, từ đó mở rộng tầm nhìn của một người với tư cách nhà văn; Merwin thể hiện cả cuộc đời dành cho việc đó: nuôi dưỡng nghệ thuật của riêng mình bằng những tiếng nói khác. Và vì thế, Merwin tiếp tục là món quà trọn đời dành cho sự khao khát tiếng nói khác của chúng ta”.
W. S. Merwin đã giành được gần như mọi giải thưởng danh giá cho một nhà thơ Mỹ, và ông đã hai lần được vinh danh là Nhà thơ Khôi nguyên Hoa Kỳ (1999-2000 và 2010-2011). Các danh hiệu khác của Merwin bao gồm Giải thưởng Aiken Taylor cho Thơ Mỹ hiện đại, Giải thưởng Bollingen, Giải thưởng về Văn học của Thống đốc Bang Hawaii, Giải thưởng Văn học Lannan cho Thành tựu Trọn đời, Nhà văn Lila Wallace-Reader's Digest ' Giải thưởng, Giải thưởng Thơ Lenore Marshall và Giải thưởng Wallace Stevens từ Học viện Nhà thơ Hoa Kỳ, Giải thưởng Dịch thuật PEN, Giải thưởng Thơ Ruth Lilly, Giải thưởng Tưởng niệm Shelley, Giải thưởng Văn học Quốc tế Zbigniew Herbert, cũng như các học bổng từ Học viện Nhà thơ Hoa Kỳ, Quỹ Guggenheim, Quỹ Nghệ thuật Quốc gia và Quỹ Rockefeller.
Là một Phật tử thực hành đồng thời là người đề xướng hệ sinh thái sâu sắc, Merwin sống từ cuối những năm 1970 trên một đồn điền cũ ở Hawaii, nơi ông đã dày công khôi phục lại trạng thái rừng nhiệt đới ban đầu và cuối cùng khu đất này đã có gần 500 loài cây cọ. Năm 2010, Khu Bảo tồn Merwin được thành lập.
W. S. Merwin qua đời vào ngày 15/3/2019, thọ 91 tuổi. Trên tờ New Yorker, nhà báo Dan Chiasson nhận xét: “Việc Merwin nhấn mạnh vào chất thơ có tính hữu ích giàu trí tưởng tượng, chống lại sự xâm lấn của các trào lưu văn học nhiều thập kỷ, đã thành công trong việc mang lại cho thế giới tưởng tượng của ông một số niềm vui và nỗi kinh hoàng hữu hình mà chúng ta liên kết với thế giới thực. Merwin có thể nói rằng ông đã sắp xếp lại những yếu tố cấu thành nên tầm nhìn của mình. Nhưng ông cũng trồng và chăm sóc một khu rừng cọ hiện được bảo vệ vĩnh viễn và mở cửa cho công chúng tham quan. Những bài thơ của ông, giống như khu rừng đó, là một thứ lưu giữ thời gian.”
Dưới đây giới thiệu 20 bài thơ chọn lọc của William Stanley Merwin, do Nguyễn Man Nhiên chuyển ngữ từ nguyên tác tiếng Anh: The Ships Are Made Ready In Silence, A Door, We Continue, The Source, Wish, The Falcons, For A Coming Extinction, Green Fields, The Asians Dying, Remembering, Air, It Is March, December Night, The River of Bees, For the Anniversary of My Death, Whenever I Go There, When You Go Away, Bread, Echoing Light và Native Trees.
NHỮNG CON TÀU ĐÃ SẴN SÀNG TRONG IM LẶNG
Neo vào cùng một vòng:
Giờ khắc, bóng tối và tôi,
La bàn đội mũ trùm đầu như chim ưng.
Giờ đây ký ức về em lại nhức nhối
Với việc rửa sạch những mảnh vỡ không bao giờ rời khỏi cảng
Chúng ta từng lên kế hoạch cho những chuyến đi,
Chúng đến gõ cửa như những trái tim hỏi:
Những gì khởi hành trên thủy triều này?
Hơi thở của đất, hơi thở ấm áp,
Em siết chặt cái lạnh quanh rốn,
Mặc dù tất cả bờ biển trừ bờ đầu tiên đều là hải ngoại,
Và bờ đầu tiên không phải quê nhà cho đến khi bị bỏ lại đằng sau.
Sự lựa chọn của chúng ta là của chúng ta nhưng đã không thực hiện
Chứa đựng như nó vốn có, đích đến của chúng ta
Khoanh tròn sự mất mát như với san hô, và
Một đích đến chỉ cho đến khi đạt được.
Tôi đã để lại cho em niềm hy vọng sẽ nhớ đến tôi
Dù bây giờ có rất ít sự giống nhau.
Vào lúc này tôi không thể tin vào sự thay đổi nào,
Cột buồm không ngừng
Lắc lư giữa những chòm sao giống nhau,
Đêm không bao giờ lấy lại đức tính đen tối
Từ bến cảng hình trái tim,
Biển rung động như trái tim,
Bầu trời uốn cong như trái tim,
Nơi tôi biết ánh sáng sẽ vỡ tan như tiếng kêu
Trên một khám phá:
“Trống rỗng.
Trống rỗng! Nhìn đi!”
Nhìn.
Đây là buổi sáng.
CỬA
Đây là nơi có thể có một cánh cửa
nơi tôi đang đứng
Trong ánh sáng bên ngoài tất cả các bức tường
sẽ có một cái bóng ở đây
suốt cả ngày
và một cánh cửa dẫn vào đó
nơi bây giờ có tôi
và ai đó sẽ đến gõ cửa
trên không trung này
rất lâu sau khi tôi đã đi
và trước mặt tôi là một cuộc đời
sẽ mở
CHÚNG TA TIẾP TỤC
Vết rỉ hoen chút màu phương Tây nằm
Vào cuối chuyến đi
Nhạc cụ chúng tôi không còn nữa.
Những người tin tưởng
Vào cái chết dứt bỏ sự thờ phượng của họ
Riêng tôi thì chúng tôi
Tiếp tục
Một vết sẹo cũ
của ánh sáng chiếc kèn chúng ta
Khách hành hương đeo miện gai
Nhìn vào mắt lạnh
Dưới những lá cờ người mù dương ra
Trong một nắm tay
Lá thư họ biến mất
Nếu bàn tay mở ra:
Từ thiện về nhà
Bắt đầu
NGUỒN
Giấc ngủ thoáng qua trong mắt bé – có ai biết từ đâu
nó đến? Vâng, có tin đồn rằng nó có nơi ở,
trong ngôi làng cổ tích giữa bóng tối của khu rừng được chiếu sáng lờ mờ
đom đóm, ở đó treo hai nụ e lệ đầy mê hoặc.
Từ đó nó
đến hôn lên mắt bé.
Nụ cười thoáng qua trên môi em bé ngủ
có ai biết nó sinh ra ở đâu không? Vâng, có tin đồn rằng một thanh niên
ánh trăng lưỡi liềm nhợt nhạt chạm vào rìa đám mây mùa thu đang dần tàn
và ở đó nụ cười lần đầu tiên được sinh ra trong giấc mơ của một giọt sương
tắm rửa buổi sáng – nụ cười thoáng qua trên môi khi bé
ngủ.
Chiếc mũ mát dịu ngọt ngào nở trên tứ chi em bé – có ai biết nó giấu ở đâu bấy lâu nay? Vâng, khi mẹ còn là
một cô gái trẻ nó đã xâm chiếm trái tim mẹ một cách dịu dàng và lặng lẽ
bí ẩn của tình yêu – sự mát dịu ngọt ngào đã nở rộ trên
tứ chi của bé.
ƯỚC
Ngôi sao trong tay tôi
Đang rơi
Tất cả đám đồng phục đều biết điều gì là vô ích
Liệu tôi có thể cúi đầu trước sự Cần Thiết
Chứ không phải trước những người làm thuê cho cô ấy
CHIM ƯNG
Có nhiều năm tôi đã biết
bông hoa trong những bức tường đá đỏ
giờ đây trong sân nơi tôi đã quay về với bạn
chúng ta uống rượu của du khách
nhiệt độ của hầm
hoàng hôn đang trào ra
từ máu khô của khối xây
không còn giờ khắc nào trên đồng hồ mặt trời
bây giờ là những con cú ở góc tháp
đang thức giấc trên nắm đấm của những người canh giữ chúng
nhưng trời vẫn còn
đang trong ngày
và ba con chim ưng xuất hiện
trên sân
không có lông trên đầu hoặc ngực
chúng bay xuống chỗ chúng tôi
đến cổ tay của chúng tôi và giữa chúng
sau đó chao lượn và đậu ngay phía trên
giữ chúng tôi trong tầm mắt
chờ đợi
chúng đang đợi chúng tôi
lần này chúng sẽ đi cùng chúng tôi
khi chúng tôi rời đảo
đêm nay cho đến hết cuộc đời
CHO SỰ TUYỆT CHỦNG SẮP TỚI
Cá voi xám
Bây giờ chúng tôi đang đưa bạn đến Sự Diệt Vong
Vị thần vĩ đại đó
Nói với nó
Rằng chúng tao, những người truy đuổi mày, đã phát minh ra sự tha thứ
Và không tha thứ gì
Tôi viết như thể bạn có thể hiểu được
Và tôi có thể nói điều đó
Người ta luôn phải giả vờ điều gì
Giữa những thứ sắp chết
Khi bạn lìa bỏ biển cả gục đầu dưới chân họ
Bạn không còn gì
Nói với hắn rằng chúng ta đã được tạo ra
Vào một ngày khác
Sự hoang mang sẽ giảm dần như tiếng vọng
Quanh những ngọn núi bên trong bạn
Không được chúng tôi nghe thấy
Và tìm đường ra
Bỏ lại sau lưng tương lai
Đã chết
Và của chúng ta
Khi bạn sẽ không gặp lại
Những chú cá voi con đang giỡn ánh sáng
Hãy xem xét những gì bạn sẽ tìm thấy trong khu vườn đen
Và tòa án của nó
Những con bò biển những con chim An-ca lớn những con khỉ đột
Các vật chủ không thể thay thế trải dài vô số
Và định trước như những vì sao
Sự hy sinh của chúng ta
Hãy hợp lực với họ
Hãy nói với hắn
Rằng chúng ta mới là người quan trọng
ĐỒNG XANH
Vào thời điểm này của thế kỷ, chỉ còn lại ít người tin vào
động vật vì chúng không còn ở đó trong những bộ phận tỉa tót
được dọn trên đĩa và những lời cầu xin từ những chiếc xe tải có mái che
là âm thanh của những cái bóng không có tương lai
vẫn còn trò chơi cho thú vui giết chóc
và có những thú cưng dành cho trẻ em nhưng cuộc sống theo
dòng chảy của riêng chúng khác với chúng ta và những người lớn tuổi hơn đã di cư trước chúng ta một số đã
đi xa rồi nhưng Peter với đôi má hốc hác
và nhúm râu trắng trên khuôn mặt của một Lawrence lụ khụ
Peter người đã sống ở một thời gian và đất nước khác
người đã chứng kiến rất nhiều thứ xuất hiện và biến mất
vẫn tin vào thiên đường và nói rằng ông chưa từng một lần
nghi ngờ điều đó kể từ thời thơ ấu ở trang trại thời
của những con ngựa mà ông đã không nghi ngờ điều đó trong những
thời điểm tồi tệ nhất của Đại chiến và sau đó và ông đã đi đến
cái mà ông ấy coi là một kiểu mẫu trần tục
khi ông lang thang về phía nam ở tuổi lục tuần
vào lúc đó nói năng đủ rành rọt
để họ đưa ông ra ngoài ông đã đi những con đường nhỏ nhất
vào một thế giới mà ông nghĩ đã là quá khứ
với những bông hoa dại mà ông hầu như không nhớ và những người hàng xóm
cùng nhau cắt cỏ trên đồng buổi sáng
xới cỏ trước bữa ăn trưa mang vào
bởi thời gian nuôi lấy sữa và vô số
tất cả những đức tính mà ông ngưỡng mộ và phần thưởng dồi dào của chúng
trong mắt một người nước ngoài và ông vẫn ở đó
suốt những ngày còn lại của mình chỉ để nhìn thấy những gì ông muốn thấy
cho đến mùa đông khi ông không thể dùng nĩa được nữa
trái đất trong khu vườn của ông và sau đó ông đã cho đi
nhà cửa đất đai mọi thứ và tự mình cam kết
đến một ngôi nhà để chết trong một lâu đài cổ nơi ông nán lại
một thời gian vây quanh bởi những người khuyết tật
cơ thể hoặc tâm trí và khi nằm đó ông nói với tôi
rằng bức tường cạnh giường ông hầu như mở ra mỗi ngày
và ông đã nhìn thấy những gì thực sự ở đó và đó là cuộc sống vĩnh cửu
như ông nhận ra ngay khi nhìn thấy những khu vườn
ông đã tạo dựng và những cánh đồng xanh bát ngát nơi ông đã từng là
một đứa trẻ và mẹ ông đang đứng đó và rồi bức tường đóng lại
và xung quanh ông là những ngày cuối cùng của thế giới
NGƯỜI CHÂU Á SẮP CHẾT
Khi những khu rừng đã bị phá hủy, bóng tối của chúng vẫn còn đó
Tro tàn của người đi bộ vĩ đại đi theo những người sở hữu
Mãi mãi
Không có chuyện họ sẽ trở lại là có thật
Cũng không lâu
Trên các dòng nước
Như những con vịt trong thời của những con vịt
Bóng ma những ngôi làng kéo lê trên bầu trời
Làm nên một chạng vạng mới
Mưa rơi vào đôi mắt mở to của người chết
Trùng trùng âm thanh vô nghĩa
Khi mặt trăng tìm thấy chúng, chúng là màu sắc vạn vật
Đêm biến mất như vết bầm tím nhưng không gì có thể chữa lành
Người chết mất dạng như vết bầm tím
Máu tan loãng vào những vùng đất cấy cày bị nhiễm độc
Đau đến chân trời
Còn lại
Trên cao những mùa đá
Chúng là những chiếc chuông giấy
Rung lên không sự sống
Những người sở hữu di chuyển khắp nơi dưới Cái Chết, ngôi sao của họ
Như những cột khói tiến vào bóng tối
Như ngọn lửa mỏng manh không ánh sáng
Họ không có quá khứ
Và đốt cháy tương lai độc nhất.
TƯỞNG NHỚ
Có những chuỗi âm thanh xưa được nghe đi nghe lại
cụm từ của Shakespeare hay Mozart mảnh mai
những cây đũa thần của cực quang phát ra từ chúng
lẫn vào tối tăm dáng đi qua của một ít người
di cư lô nhô trong đêm xa bầy cổ
xa phần còn lại của lời nói xa các nhạc cụ
KHÔNG KHÍ
Đúng là đêm rồi.
Dưới cây đàn luýt bị lật úp
Một dây đang lướt theo cách của tôi
Vang lên âm thanh kỳ lạ.
Bên này bụi bặm, bên kia bụi bặm.
Tôi lắng nghe cả hai bên
Nhưng tôi vẫn tiếp tục.
Tôi nhớ những chiếc lá ngồi phán xét
Và rồi mùa đông.
Tôi nhớ cơn mưa với những dãy đường.
Cơn mưa cuốn đi mọi con đường.
Không nơi chốn.
Trẻ như tôi, già như tôi,
Tôi quên mất ngày mai, người mù.
Tôi quên đi cuộc sống giữa những khung cửa sổ bị chôn vùi.
Đôi mắt trong rèm cửa.
Bức tường
Cao lên qua các bất tử.
Tôi quên đi sự im lặng
Chủ nhân của nụ cười.
Đây hẳn là điều tôi muốn làm,
Đi bộ trong đêm giữa hai sa mạc,
Và ca hát.
ĐÓ LÀ THÁNG BA
Bây giờ là tháng Ba và bụi đen rơi ra khỏi sách
Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ đi
Linh hồn cao lớn đã ở đây
Đã rời bỏ
Trên các đại lộ sợi chỉ không màu nằm dưới
Giá cũ
Khi nhìn lại luôn có quá khứ
Kể cả khi nó đã biến mất
Nhưng khi bạn mong đợi
Với những đốt ngón tay bẩn thỉu và đôi cánh đứt
Con chim trên vai bạn
Bạn có thể viết gì
Nỗi đắng cay vẫn dâng lên trong hầm mỏ cũ
Nắm tay sắp ra khỏi quả trứng
Nhiệt kế lòi ra từ miệng xác chết
Ở một độ cao nhất định
Đuôi diều trong chốc lát đã
Bị bao phủ bởi những bước chân
Việc tôi phải làm vẫn chưa bắt đầu
ĐÊM THÁNG MƯỜI HAI
Con dốc lạnh lẽo đứng trong bóng tối
Nhưng phía nam của cây cối khô khốc
Những cành nặng trĩu khoác lông vũ leo vào ánh trăng
Tôi đến để xem những thứ này
Cây trắng già hơn vào ban đêm
Cây già nhất
Đến tàn lụi đầu tiên
Và tôi nghe thấy những con chim ác là thức giấc dưới trăng
Dòng nước chảy qua nó
Sở hữu những ngón tay không có điểm dừng
Đêm nay một lần nữa
Tôi tìm thấy lời cầu nguyện duy nhất và nó không dành cho nam giới
SÔNG ONG
Trong giấc mơ tôi trở lại dòng sông ong
Năm cây cam bên cầu và
Bên cạnh hai nhà máy nhà tôi
Vào sân có một người mù đi theo
Đàn dê đứng hát
Về những gì đã cũ
Chẳng bao lâu nữa sẽ là mười lăm năm
Già rồi ông sẽ rơi vào mắt
Tôi lấy đi đôi mắt tôi
Một chặng đường dài đến lịch
Hết phòng này đến phòng khác hỏi tôi sẽ sống thế nào
Một trong những kết cục làm bằng đường phố
Đám rước một người đi qua đó
Những chai rỗng
Hình ảnh của niềm hy vọng
Đề tặng tên tôi
Một lần và một lần
Ở cùng thành phố tôi sinh ra
Hỏi tôi sẽ nói gì
Ông sẽ rơi vào miệng
Đàn ông nghĩ họ tươi hơn cỏ
Tôi quay lại với giọng nói của ông vang lên như một đống cỏ khô
Ông đã già, ông ấy không có thật, không có gì là thật
Cũng không có tiếng tử thần kéo nước
Chúng ta là tiếng vọng của tương lai
Trên cửa có ghi phải làm gì để sống sót
Nhưng chúng ta không sinh ra để tồn tại
Chỉ để sống
NHÂN KỶ NIỆM NGÀY MẤT CỦA TÔI
Mỗi năm không hề biết tôi đã trôi qua cái ngày này
Khi những ngọn lửa cuối cùng vẫy tay chào tôi
Và sự im lặng sẽ bắt đầu
Lữ khách không mệt mỏi
Như tia sáng của một vì sao tắt
Sau đó tôi sẽ không còn
Tìm lại mình trong đời như trong bộ áo quần xa lạ
Ngạc nhiên trước trái đất
Và tình yêu của một người phụ nữ
Cùng sự vô liêm sỉ của đàn ông
Như hôm nay viết sau ba ngày mưa
Nghe chim hồng tước hát và tiếng mưa ngất tạnh
Và cúi lạy như kẻ vô tri giác
BẤT CỨ KHI NÀO TÔI ĐẾN ĐÓ
Bất cứ khi nào tôi đến đó mọi thứ đều thay đổi
Những con tem trên băng danh hiệu
Của các giáo sư về nước
Chân dung Glare là lý do của
Tang tóc trắng
Giữa những tảng đá mới những con côn trùng lạ đang ngồi
Khi đèn tắt
Và một lần nữa tôi nhớ rằng sự khởi đầu
Bị phá vỡ
Thảo nào địa chỉ bị rách
Nơi mà tôi tìm đường ăn sự im lặng của động vật
Tặng tuyết cho bóng tối
Hôm nay thuộc về thiểu số và ngày mai không thuộc về ai
KHI EM RA ĐI
Khi em ra đi, gió cuồn cuộn về phương bắc
Các họa sĩ vẽ cả ngày nhưng đến hoàng hôn, màu sơn rơi xuống
Hiện ra những bức tường đen
Đồng hồ lại điểm đúng vào giờ đó
Điều chưa từng xảy ra qua bao năm tháng
Và ban đêm, quấn mình trên chiếc giường tro
Thở một hơi anh thức dậy
Đó là lúc râu của người chết mọc lên
Anh nhớ rằng anh đang sa ngã
Rằng anh là nguyên cớ
Và lời nói của anh là trang phục cho những gì anh sẽ không bao giờ trở thành
Như tay áo nhét của cậu bé cụt tay
BÁNH MÌ
Mỗi khuôn mặt trên phố là một miếng bánh mì
lang thang
đang tìm kiếm
đâu đó trong ánh sáng cơn đói thực sự
dường như đang đi ngang qua họ
họ nắm chặt
họ đã quên những hang động nhợt nhạt
họ mơ được trốn vào
hang động của riêng mình
đầy sự chờ đợi dấu chân của họ
treo lủng lẳng những dấu vết trống rỗng từ sự mò mẫm
đầy giấc ngủ và sự ẩn náu của họ
họ đã quên những đường hầm gồ ghề
họ mơ ước được đi ra ngoài ánh sáng
để nghe từng bước chân
trái tim của bánh mì
được gìn giữ bởi hơi thở đen tối
và trỗi dậy
để thấy mình cô đơn
trước cánh đồng lúa mì
vươn ánh sáng của nó lên mặt trăng
ÁNH SÁNG VANG VỌNG
Khi tôi bắt đầu đọc tôi đã tưởng tượng
những cây cầu đó có liên quan gì đến những chú chim
và với những thứ trông như những cái lồng nhưng tôi biết
rằng chúng không phải là những chiếc lồng, chắc hẳn đó là mùa thu
với ánh sáng bụi bặm nhấp nháy từ dây của xe điện
và những chỗ màu cam đang bốc cháy trong bức ảnh
và bây giờ thực sự là mùa thu trong trẻo
ngày không xa biển với cơn gió nhẹ thổi qua
bãi cỏ khô hôm qua còn xanh
cây ngô rỗng đứng run rẩy và gục xuống
những bông hoa ác che khuất cánh đồng bị bỏ quên
và khắp nơi những màu sắc tôi không thể nắm bắt được
mắt tôi đỏ hoe cả những dòng suối rộng
màu đỏ đó là mùa của người di trú
bay vào ban đêm cảm thấy trái đất đang quay
bên dưới chúng và tôi thức dậy trong thành phố và nghe thấy
các ghi chú cuộc gọi của chim choi choi một lần nữa và
một lần nữa trước khi tôi ngủ và ở đây, phía hạ lưu
tụ tập nhau vang vọng sát bờ
những cây cầu dài nhất đã mở đôi cánh mỏng
CÂY BẢN ĐỊA
Cả bố và mẹ tôi đều không biết
tên của các cây
nơi tôi sinh ra
đó là gì
tôi hỏi và
bố mẹ tôi không
nghe họ không nhìn vào nơi tôi chỉ
vẻ ngoài của đồ đạc trong nhà níu giữ
sự chú ý các ngón tay của họ
và bên kia căn phòng họ có thể xem
những bức tường đã quên
nơi không có câu hỏi
không có tiếng nói không có bóng râm
Đã từng có cây cối
nơi họ còn là những đứa trẻ
nơi tôi chưa từng đến
tôi hỏi
có cây cối ở những nơi đó không
nơi bố mẹ tôi sinh ra
và trong thời gian đó chắc hẳn
bố mẹ tôi đã nhìn thấy chúng
và khi họ nói đúng điều đó có nghĩa là
họ đã không nhớ
chúng là gì tôi hỏi chúng là gì
nhưng cả bố và mẹ tôi
nói rằng họ chưa bao giờ biết
Blues (1962) – Adolph Gottlieb