Phan Tấn Hải
Tuyển tập “9 Khuôn Mặt…” dày 440 trang của Bùi Vĩnh Phúc có một điểm đặc biệt: bạn chỉ cần đọc khoảng mười trang sẽ nhận ra tự thân tuyển tập cũng là một sáng tác văn học vì chính bút pháp phê bình của họ Bùi cũng đầy sương khói nghệ thuật. Chúng ta có thể nghiệm ra rằng, một tác phẩm nghệ thuật, thí dụ, ca khúc “Hương Xưa” của nhạc sĩ Cung Tiến, tuy ngắn chỉ có 5 phút, nhưng tuổi thọ có thể là vài thập niên hay vài thế kỷ, vì thỉnh thoảng chúng ta lại có thể nghe lại dòng nhạc của Cung Tiến, năm sau, mười năm nữa, và nửa thế kỷ nữa. Đó là tuổi của nghệ thuật. Tương tự, các bài thơ của Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng, truyện của Nguyễn Mộng Giác và tất cả tác phẩm của 9 người trên, tuổi thọ không chỉ trong vài trăm trang sách. Như Truyện Kiều của Nguyễn Du, đôi khi gắn bó rất là lâu dài với hồn thơ của một dân tộc. Và cũng tương tự, với văn phong cực kỳ thơ mộng của Bùi Vĩnh Phúc, tuyển tập phê bình này trở nên có một đời sống riêng, tuổi thọ đã vượt xa hơn 440 trang, và chúng ta có thể đọc đi đọc lại, cũng tương tự như khi nghe nhạc Cung Tiến.
Và chất thơ trong văn phong phê bình của Bùi Vĩnh Phúc cũng biến đổi, không đơn điệu. Thí dụ, trong sách “9 Khuôn Mặt…” nơi bài “Mấy Tưởng Khúc với/về Phạm Công Thiện,” trong tiểu mục phần III có nhan đề “Đêm và ngày, và Phạm Công Thiện, và bốn mươi bảy năm trôi qua trên mặt đất (Đọc và nhìn lại Phạm Công Thiện qua “Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất”)” Bùi Vĩnh Phúc nhìn về họ Phạm, như sau:
“Ngửi một mùi thơm, người ta nhớ lại bao nhiêu cảnh đời đã sống, bao nhiêu xuân xanh đã vụt qua, bao nhiêu mộng tưởng đã bay thành khói chiều. Và những con người, những quyển sách, những ngày tháng đã đi qua, những nơi chốn đã trở thành ký ức, những rượu mạnh của tuổi trẻ, những nhiệt hứng của những ngày chân đạp trên gió sớm để bước vào đời. Tất cả những mùi vị những trái cây những rượu ngon của cuộc đời đó bỗng bây giờ trở lại khi người ta hơn bốn mươi bảy tuổi, người ta ngồi bên khung cửa sổ nhìn ra cây cam sai trái và những con quạ trọc đầu trượt chân té lên té xuống và tiếng lóc cóc của những con ngựa gõ vào trí nhớ. Người ta ngồi và viết ra những con kiến nhỏ của cuộc đời. Những con kiến đi vào mọi thứ ngõ ngách, mọi thứ lỗ hổng của đời sống. Những con kiến hồn nhiên, vui tươi, say mê, thô tục, lãng mạn, phất phơ, ngờ nghệch, thông minh, sáng sủa, u tối, mệt mỏi, ngạo mạn, tự chế, tự phúng, tự hào, tự mãn, tự ái, tự kiêu, tự hạ, tự tri, tự túc. Những con kiến hay có ý nghĩ tự tử nhưng luôn luôn tự triển hạn. Những con kiến, cũng như những dòng chữ kia, chưa muốn tự xoá. Chúng vẫn còn tiếp tục muốn đi trên những cành cây xuân hạ thu đông lưu dấu cuộc đời. Ði, như là một hành động để tìm kiếm ý nghĩa đích thực của sự sống.” (trang 297-298)
Đó. Chúng ta vừa đọc nơi đó: Bùi Vĩnh Phúc phân tích tác phẩm Phạm Công Thiện, nhưng chính họ Bùi cũng đang làm thơ, khi lật qua trang sách, ngửi thấy một mùi thơm, và rồi một thế giới mới hiện ra, khi “tiếng lóc cóc của những con ngựa gõ vào trí nhớ” … Than ôi, thơ của Bùi Vĩnh Phúc đang trải nghiệm, đang đọc, đang thẩm định, đang hít thở thế giới thơ của Phạm Công Thiện. Thế giới thơ này đang phả hồn vào thế giới thơ kia. Có vẻ như hai nhà thơ Bùi và Phạm đang tương tác nhau, bay bổng trên trang giấy. Những dòng chữ này sang năm đọc lại cũng thấy hay, mười năm nữa đọc lại cũng không cũ. Đó chính lá sức mạnh của văn học. Lấy đâu ra một nhà phê bình văn học thơ mộng như Bùi Vĩnh Phúc? Hiển nhiên, tuổi thọ của sách này thấy rõ là dài hơn 440 trang, và là một không gian thơ rất mực lãng đãng của họ Bùi đang thở vào 9 thế giới văn học kỳ vĩ của ngôn ngữ Việt.
Vấn đề không chỉ là thơ mộng. Cuộc đời sâu thẳm hơn những gì chúng ta có thể hình dung. Ý nghĩa của cuộc đời ở đâu? Nơi trang sách? Vậy thì, khi chữ mờ đi với thời gian, khi sách bị đốt cháy, phải chăng dưới những tầng vô ngôn là ý nghĩa sâu thẳm? Bùi Vĩnh Phúc khi kết thúc một bài về Phạm Công Thiện đã nhắc tới một câu thường gặp trong Kinh Phật là “ư nhữ ý vân hà?” (vậy thì, ý của ngươi nghĩ sao?)… Chúng ta có thể nhớ rằng, Bùi Vĩnh Phúc là một giáo dân Công Giáo, nhưng trong cương vị dạy văn học bậc đại học, phải đọc và nghiên cứu rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Và câu trích dẫn Kinh Phật để cuối một bài viết rất mực thơ mộng như để nhắc lại về những thắc mắc lớn của nhân loại, trích:
"...người ta cũng có thể nói: Hãy đốt bỏ tất cả các cuốn sách của Phạm Công Thiện, và chỉ giữ lại những ý tưởng thơ mộng của ông, những suy nghĩ đắm đuối và dạt dào của ông, những tư tưởng đằm sâu của ông. Về sách vở, về tư tưởng, về thơ ca, về triết lý, và về cuộc đời. Nói chung. Những điều đó là thể tính, là căn cốt và hơi thở của một người, theo tôi, đã lãng đãng và lênh đênh-thơ mộng-hồn nhiên-tha thiết đi vào và đi qua cuộc trần gian này.
Ư nhữ ý vân hà?" (trang 290)
Trong văn phong phê bình của Bùi Vĩnh Phúc, những suy nghĩ cực kỳ phức tạp đôi khi hiển lộ ra khi phải nói tới những căn để ý nghĩa của đời người. Chúng ta hiện hữu trong cõi này. Ý nghĩa của hữu thể là gì? Và khi cuộc tồn sinh kết thúc, tức là cái chết, có phải chúng ta đang đối diện với hư vô? Bùi Vĩnh Phúc nhận định rằng thơ Thanh Tâm Tuyền cũng là những dòng suy tư về ý nghĩa tồn sinh, về cái hướng-tử của mệnh người.
Bùi Vĩnh Phúc viết trong bài "Cái Tôi kỳ việt và Âm bản Thành phố/Tình yêu trong thơ tự do Thanh Tâm Tuyền (*) hay “Thanh Tâm Tuyền, người thi sĩ ấy”" trích như sau:
"Nếu nhìn hiện sinh con người, như trong cái nhìn của Heidegger, là một hữu thể bước vào thế gian, một sự Tồn tại trong Thế gian (In-der-Welt-Sein), thì con người được ném vào sự hiện diện của chính mình. Tồn tại trong Thế gian là một cơ cấu nền tảng của hiện hữu. Và con người là một Hữu-thể-hướng-tử, tức một tồn tại, một hiện hữu cho cái chết, hướng về cái chết (Sein-zum-Tode). Con người đi trước vào cái chết. Như thế, suy nghĩ của nhà thơ là một điều tự nhiên. Thanh Tâm Tuyền có lẽ đã nhận thức được điều ấy. Yếu tính của con người là một trạng thức hiện hữu, và yếu tính ấy thuộc về thế giới hiện tượng, xuất hiện ra để mà qua đi. Bởi vậy, trong triết lý của Heidegger, khởi điểm của Hữu thể là Vô thể. Là Hư vô, Hư không. Trong Hư vô và qua cái Hư vô, con người nhận biết được hiện hữu mình, tồn tại mình. Và Hữu thể, như thế, được đồng hoá, hay có sự gắn bó, kết hợp với Hư vô. Suy tư về Hư vô làm con người ý thức về ý nghĩa cuộc tồn tại, hiện sinh của mình. Điều đó làm nó sống có dự phóng, có ý nghĩa hơn." (trang 30-31)
Như thế, bầu trời thơ của Thanh Tâm Tuyền cũng là một tiếng kêu giữa trời hư không về một ý nghĩa của cõi người. Bùi Vĩnh Phúc tự giải thích về cách anh đọc thơ Thanh Tâm Tuyền. Một cách khác, đúng như thế. Họ Bùi đã phê bình kiểu cực kỳ thơ mộng, nơi phần 4 của bài trên về thơ Thanh Tâm Tuyền, trích:
"Tôi muốn làm một điều khác, nhìn một cách khác.
Nhịp điệu của hình ảnh, nhịp điệu của ý tưởng, nhịp điệu của ý thức. Hãy nghĩ đến một rừng cây. Một rừng cây nguyên sinh, chẳng hạn. Cây mọc trong rừng không cần vần, không theo vần, không nhất thiết phải ngay hàng thẳng lối. Có ánh nắng là có sự sống, có sự mọc lên và trưởng thành. Có tiết tấu riêng của chúng. Có tình yêu là có sự sống, có sự phát triển. Cây cối mọc cùng nhau có tình yêu dành cho nhau không? Hẳn là phải có. Chúng hẳn là phải “phải lòng” nhau, phải yêu thương nhau mới mọc lên cạnh nhau như thế. Con người, trong “bối cảnh” này, có lẽ chỉ là một cái duyên, nếu có thể nói được như thế, một chút duyên phù trợ. Một chút duyên, trong lẽ nhân duyên. Cả một rừng cây, như một bài thơ, cho ta thấy rõ nhịp điệu của hình ảnh, cho dù cây cối có thể không mọc “ngay hàng thẳng lối” để “tiếp ứng” nhau. Còn ý tưởng và ý thức? Chắc là có đấy. Một rừng cây cũng sẽ có riêng trong chúng một nhịp điệu về ý tưởng và ý thức nào đó, nhìn từ góc độ của Kẻ Sáng Tạo, của Thiên Nhiên, của Trời Đất. Những bài thơ của Thanh Tâm Tuyền, chẳng hạn như các bài Vĩ Tuyến, Chim, Lệ Đá Xanh, Hoa, Bến Tàu, Mưa Ngủ, chẳng hạn, đều có thể nhìn như những cánh rừng như thế. Chưa kể những bài dài hơn, hay gần chất văn xuôi hơn." (trang 45)
Thế đó. Bùi Vĩnh Phúc phê bình văn học, và phê bình cũng tự thân là thơ. Và cái chất thơ của đời sống, đôi khi nằm ngoài ngôn ngữ. Tức là, vô ngôn. Có lẽ, bài phức tạp nhất của Bùi Vĩnh Phúc trong tuyển tập “9 Khuôn Mặt…” là bài về Vũ Khắc Khoan, người nổi tiếng về các vở kịch theo một hình thức kịch rất là mới. Và đó cũng là lý do Bùi Vĩnh Phúc đối chiếu song trùng Vũ Khắc Khoan với nhà soạn kịch Samuel Beckett, người nổi tiếng trong phong trào tiểu thuyết mới. Kịch bất lợi là không được chú trọng trong thế giới văn học Việt Nam. Độc giả trẻ ở hải ngoại lại càng ít biết tới Vũ Khắc Khoan. Nhưng các nhận định của Bùi Vĩnh Phúc có thể là một giới thiệu về một thế giới kịch, nơi ngôn ngữ nghệ thuật như một cái cớ để nói lên cái thế giới đầy phi lý không minh giải (nơi chúng ta cũng là các nhân vật đứng nơi các ga xép cõi đời để chờ một giải thích từ nhân vật Godot không ai biết tới).
Trong bài “Vũ Khắc Khoan & Samuel Beckett: Nghệ Thuật, Như Một Cái Cớ,” Bùi Vĩnh Phúc nói về cái nhìn của Vũ Khắc Khoan về một hình thức kịch rất mới, trích:
"Vũ Khắc Khoan yêu sự vô ngôn này. Ông cũng nhắc đi nhắc lại nhiều lần cái quan niệm của ông cho rằng một vở kịch lớn là một vở kịch không có khán giả. Khán giả với diễn viên là một. Khán trường và sân khấu không còn sự ly cách (sự ly cách này vốn dĩ đã thật là mỏng manh trong bản chất của kịch)."(trang 148)
Nhưng, nhân loại không thể vô ngôn được. Do vậy, lời nói phải bật ra, và sự sống hiển lộ. Bùi Vĩnh Phúc phê bình kịch Vũ Khắc Khoan mà y hệt như đang tự đối thoại với lòng mình, trích:
"Đối thoại sẽ làm bật tung hiện hữu, bật tung sự sống. Anh sống thế nào thì anh nói làm vậy. Ngôn ngữ như một cuốn sách mở ra để người khác nhìn vào nội-dung-anh. Một thế giới phi lý có thể tự trình bày nó bằng những đối thoại phi lý. Một thế giới trống rỗng có thể tự mở ra bằng những âm thanh và cuồng nộ. Ở đây, con người chẳng có chọn lựa, xao xuyến gì để chứng tỏ là mình sống cả. Tôi nói, bởi thế tôi sống. Đây thực là một chân lý giản dị. Bởi vì tôi phải làm một cái gì trong khi chờ đợi. Tôi phải làm một cái gì đó để chứng tỏ sự có mặt của tôi. Vậy thì, hãy nghe một nhân vật của Vũ Khắc Khoan trong Ga Xép gợi chuyện..." (trang 163)
Như chúng ta đã nói nơi đầu bài, Bùi Vĩnh Phúc ngoài yếu tố chủ đạo là thơ mộng, vẫn còn các phương diện công phu, phức tạp… Nơi đây, một học giả họ Bùi hiện ra. Chỗ này, tôi xin thú thật rằng, với bản chất là một nhà báo lâu năm, đã quen với cách viết đơn giản trong đời thường, tôi hơi khựng lại khi đọc những dòng phân tích ngữ học, phức tạp. Bùi Vĩnh Phúc chỉ làm cho tròn chức năng phê bình, cho nên, chỗ phức tạp thì phải nói phức tạp. Dĩ nhiên, thơ Bùi Giáng bên cạnh yếu tố thơ mộng, giỡn chơi, cũng là những hí lộng về ngữ pháp và mật nghĩa hiện sinh.
Trong bài viết nhan đề “Trích đoạn bàn về thơ của Bùi Giáng trong tiểu luận ‘Vấn đề thẩm thức một tác phẩm nghệ thuật’ của Bùi Vĩnh Phúc” (một kiểu đặt nhan đề dài và phức tạp của Bùi Vĩnh Phúc), chúng ta đọc thấy họ Bùi dẫn ra 2 câu thơ của Bùi Giáng và phân tích về cách đặt câu phức tạp, trích như sau:
"Bây giờ / em ở nơi đâu
Cỏ trên mình mẩy em / sầu ra sao
Trên quan điểm từ-vụ-học, và hiểu một cách bình thường, thì câu lục bắt buộc phải ngắt 2-4, câu bát 5-3. “Bây giờ” là một trạng từ, đứng vai trò của một trạng ngữ (adverbial phrase), phải được tách ra khỏi mệnh đề chính. Mệnh đề “em ở nơi đâu” là một câu hoàn chỉnh và ngắn, không cần tách đoạn.
Câu bát, nguyên cả cụm từ “Cỏ trên mình mẩy em” là chủ từ. Nó là một danh-ngữ (noun phrase), đứng vai trò chủ ngữ (subject) và không thể tách ra được. Dù sao, ta nhận thấy trong cụm từ này, “Cỏ” là danh từ chính, và “trên mình mẩy em” (hiểu ngầm động từ “mọc”) là trạng ngữ chỉ nơi chốn (hay vị trí), làm rõ nghĩa cho danh từ “cỏ” (hay rõ và đúng hơn là cho động từ hiểu ngầm “mọc”). Cụm từ “sầu ra sao” là vị ngữ (predicate), trong đó “sầu” là bổ túc từ (complement) (với động từ “thì” được hiểu ngầm), “ra sao” là trạng từ. Trong Anh và Pháp ngữ, cũng như trong một số ngôn ngữ khác, trạng từ “ra sao” này được một luật biến hóa (transformational rule) cho phép nhẩy lên đầu câu để biến thành những từ How và Comment, v.v.; đồng thời luật này lại kéo theo một luật nữa, bắt buộc việc đảo ngược chủ từ và động từ trong câu..." (trang 355)
Có vẻ như nhà thơ Bùi Giáng đang đùa giỡn, kiểu như “Bây giờ em ở nơi đâu, Cỏ trên mình mẩy em sầu ra sao” khi nói chuyện với một cô bạn nhỏ nào đó. Khi bạn nói chuyện với một cô bạn gái nhỏ, hiển nhiên bạn không thể bảo cô này rằng bạn đang khởi đầu bằng một danh ngữ rồi kế tiếp là chủ ngữ, và vân vân. Có phải nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc đã đi quá đà khi phân tích ngữ học phức tạp như thế? Nghĩa là, trong khi Bùi Giáng tiên sinh đang thì thầm hỏi cô bạn đang thẹn thùng rằng cỏ mọc có sầu chăng, thì Bùi Vĩnh Phúc dí ống kính hiển vi vào chỗ cỏ mọc để thắc mắc rằng có phải cỏ mọc ngược vì đảo ngược chủ từ và động từ… Than ôi, mệt vô cùng, khi đọc như thế. Nhưng cũng là hứng thú vô cùng khi chữ nghĩa mọc ra cỏ sầu.
Nơi một mặt khác, Bùi Vĩnh Phúc cũng nhìn thơ Bùi Giáng như những trận mưa chữ giữa trời thơ mộng. Nơi đây, Bùi Vĩnh Phúc viết y hệt như làm thơ, một kiểu phê bình văn học hệt như đang làm thơ. Và trên những dòng chữ Bùi Vĩnh Phúc, chúng ta đang nhìn thấy những mưa nguồn cố quận, sương mù bến cũ… Trời ạ, sao đã có một nhà thơ Bùi Giáng, mà lại bỗng hiện ra một nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc, để rồi chúng ta đọc mà ngẩn ngơ trên từng trang giấy. Bùi Vĩnh Phúc đã viết trong bài có nhan đề "Bùi Giáng, bước chân đi tìm hồn nguyên tiêu và một màu hoa trên ngàn" những dòng thơ mộng như sau, trích:
"Bùi Giáng đã ra đi rồi. Nhưng vầng trăng ông để lại vẫn mãi còn nguyên một màu sơ thủy. Những lá hoa cồn hay những dòng chữ mà ông để lại cho đời vẫn thấp thoáng mãi trong những bóng sương mù của thi ca, của hồn nguyên tiêu ngày cũ. Mãi mãi, chúng sẽ còn để ngân lại trong lòng những người yêu quý ông những tiếng gọi trở về. Trở về bến sơ đầu của những cơn mưa nguồn ngày cũ, của những bài ca quần đảo hoang vu, của những lời cố quận mịt mù gang tấc. Hẳn đã nhiều lần trong cuộc tồn sinh của mình, Bùi Giáng đã nhận thấy rằng quê hương của ông, cố quận của ông đã không còn như xưa. Dù quê hương hay cố quận đó có được hiểu như thế nào đi nữa thì ông cũng đã “chết nhiều lần trong trận sống”, và trong cuộc đời này, hình như nhiều lúc ông đã lạc mất lối về. Bởi thế, để tìm về đường xưa lối cũ của những hồn nguyên tiêu (Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài / Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua / Lỡ từ lạc bước bước ra / Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn), có lẽ người thi sĩ ấy chỉ còn có thể tìm về và tìm vào những cuộc chiêm bao..." (trang 342)
Một nhà văn có tác phẩm gắn liền với lịch sử nhiều nhất là Nguyễn Mộng Giác. Kể cả lịch sử xây dựng văn học hải ngoại, và cả những hình ảnh lịch sử trong các tác phẩm, dù trường thiên tiểu thuyết hay truyện ngắn. Cả Bùi Vĩnh Phúc và Nguyễn Mộng Giác đều là thuyền nhân, vượt biển sau năm 1975. Những ngày đầu tiên cầm bút để sáng tác văn học ở hải ngoại là những ngày rất mực gian nan. Trong tuyển tập “9 Phong Khí…” Bùi Vĩnh Phúc kể lại những ngày hình thành văn học hải ngoại, trong đó Nguyễn Mộng Giác đứng ra gánh vác những phần nặng nhọc.
Trong bài viết nhan đề "Nhớ Nguyễn Mộng Giác. Và tưởng nhớ một thời văn" Bùi Vĩnh Phúc kể về những bước khởi đầu, trích:
"Năm 1985, chúng tôi có dịp ngồi chung với nhau cùng với một số bạn văn như Nguyễn Bá Trạc, Hoàng Khởi Phong, Phạm Quốc Bảo, Cao Xuân Huy… để làm nguyệt san Văn Học Nghệ Thuật (bộ mới), rồi sau đó là Văn Học. Những bước khởi đầu của tờ báo này, cùng với những khó khăn và những kỷ niệm mà chúng mang lại, đã luôn là những rung động không hề tắt—tôi nghĩ như thế—của tất cả anh em chúng tôi mỗi khi có cơ hội nhìn lại hay làm sống lại trong tâm hồn mình những ngày tháng đó. Tôi sẽ không kể lại những chuyện ấy ở đây. Nhưng tôi muốn nói là những kỷ niệm ấy đẹp. Đó là những kỷ niệm của một nhóm “đầu xanh tuổi trẻ”, lưu vong bên ngoài đất nước, yêu văn chương chữ nghĩa Việt, thiết tha với sự mơ mộng và những lý tưởng đáng yêu của mình, và đã dám đánh đổi nhiều thứ để có được tờ báo ấy và những kỷ niệm ấy. Có những người trong chúng tôi, trong đó ít nhất là Nguyễn Bá Trạc, Nguyễn Mộng Giác và Hoàng Khởi Phong, cách này hay cách khác, đã viết về những ấn tượng và rung động mà thời kỳ này còn để lại trong lòng họ. Cho dù mỗi người có một phong cách, một văn cách riêng, với những bảng mầu kỷ niệm riêng, với những âm sắc riêng và những độ rung khác nhau nơi những kỷ niệm chung, tôi nghĩ tất cả chúng tôi đều đã chia sẻ với nhau những nét chung nhất và đẹp tươi của những kỷ niệm ấy, cho dù cũng có những chỗ những nét mực kia đã bị thời gian làm cho phôi pha đi ít nhiều." (trang 237-238)
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác hiện ra như một người khổng lồ, cả trong đời thường, khi cưu mang nhiều bạn văn nghệ, và cả trong văn học, khi sáng tác những bộ trường thiên dẫn tới những cuộc tranh luận đầy sóng gió. Để thấy được tầm vóc khổng lồ đó của Nguyễn Mộng Giác, phải cần tới một nhà phê bình văn học có đôi mắt nhìn được xuyên suốt sáu cõi. Bùi Vĩnh Phúc đã đóng được vai trò của thiên lý nhãn đó, một cách thơ mộng, một cách xuất sắc.
Nhà văn Phan Tấn Hải tự hoạ
Trong bài viết nhan đề “Trên những lớp sóng của mùa biển động” với ghi chú nơi tiểu đề là (Bài nói chuyện về tác phẩm Mùa Biển Động của Nguyễn Mộng Giác tại George Mason University, Washington, D.C., ngày 30 tháng 11, 1989), Bùi Vĩnh Phúc đã nhận định rằng:
"Mùa Biển Động là một tác phẩm có một kích thước lớn, và cũng là một tác phẩm có tham vọng lớn không kém. Nó muốn ghi lại biến chuyển tâm trạng của những thanh niên trưởng thành trong chiến tranh, trải dài từ lúc Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ cho đến tháng 4, 1975, và ghi lại cái tâm trạng tha hương của những nhân vật chính sau thời điểm tang thương đó." (trang 225-226)
Cái tuyệt vời của Nguyễn Mộng Giác là viết nhiều như mưa lũ về những đau đớn lịch sử, trong đó có khoảng trên dưới một trăm nhân vật, trong đó có những nhân vật được xem là có thật trong lịch sử và phần nào hư cấu, như Tường, như Ngô… Và cái tuyệt vời của nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc là nhìn thấu suốt qua những trang giấy trường thiên tiểu thuyết, để thấy rằng tất cả những nhân vật trong đó, như Tường, Ngô, Diễm, Nam, Quỳnh Như, Quỳnh Trang, Mãn, Thanh Tuyến, Lãng… chỉ là hóa thân của hai nhân vật chính là: Thất và tán. Mất và tan.
"Vậy thì, nhân vật chính trong Mùa Biển Động của Nguyễn Mộng Giác chính là sự thất tán. Thất và tán. Mất và tan. Mất mát, tàn rụng, và tan vỡ, tan rã, tan tác. Mất là hệ quả của tan, và tan là nguyên nhân đưa đến mất. Mất và tan những gì? Đó là sự mất mát, tan vỡ, tan tác, tan rã của những cơ cấu, những giá trị xã hội, những giềng mối đạo đức, luân lý tưởng như đã là bền vững trong xã hội ta trong suốt bao nhiêu năm. Đó là sự tan vỡ của những mộng tưởng, của những lý tưởng, và ngay cả của những ảo tưởng nữa, mà nhiều người đã từng ôm ấp trong suốt một thời tuổi trẻ. Đó cũng là sự tan tác, bị lăn đi tung tóe bốn phương tám hướng của những con người đã tưởng suốt đời được sống và ôm lấy quê hương, hay của những con người để mặc thân mình cho sóng vùi, cho biển dập.
“Nhưng, chính là trong nỗ lực xây dựng và vẽ lại cái tiến trình tan và mất, mất và tan đó mà tác giả Nguyễn Mộng Giác đã cho chúng ta cơ hội tìm lại được những giá trị cũ. Tác giả cho chúng ta sống lại tâm trạng của những kẻ sống trong cơn lốc xoáy của cả một thời đại. Và cũng từ đó, ông giúp chúng ta tìm thấy những giá trị vĩnh cửu của sự sống, cái ý nghĩa cao quí của đời sống con người. Tác giả đã giúp đem trả về cho chúng ta những điều ấy qua những trang sách của ông. Trình bày cái tán, để thấy cái tụ. Trình bày cái mất, để thấy cái trở về, cái còn vĩnh viễn. Đó là một nghịch lý văn chương mà tôi tìm thấy trong Mùa Biển Động." (trang .227)
Trong khi Nguyễn Mộng Giác quan tâm về lịch sử, về các nhân vật trong dòng lịch sử quê nhà… nhà văn Mai Thảo là một hình ảnh đối nghịch, chỉ quan tâm về cái đẹp của ngôn ngữ, của văn học. Bùi Vĩnh Phúc đã thấy như thế, và đã sử dụng một ngôn ngữ rất thơ để nói về Mai Thảo.
Cũng nơi trích đoạn dưới đây, nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc đã trở thành một nhà thơ khi nói về nhà văn Mai Thảo, trích (chúng ta nên đọc lời bình của Bùi Vĩnh Phúc thật chậm, y hệt như đang đọc thơ, đọc từng chữ, từng cụm chữ trong một buổi chiều nghiêng nắng rất vàng):
"Chữ, ở Mai Thảo, không lắm khi mọc lên như rừng, với những cây cành, lẻm nhọn. Mà chữ, nơi ông, thường ánh lên và sóng sánh như một biển đầy ánh sáng, đầy sắc màu. Mềm mại, gợn sóng, và vang âm. Những con âm rì rào, thao thiết. Trong chiều, trong đêm, hay khi về sáng.
Những bước chân âm trải sóng khắp lòng ta." (trang 100)
Thực sự, đó là thơ. Bùi Vĩnh Phúc viết phê bình văn học y như đang làm thơ. Trong văn phê bình này, cách ngắt câu, Bùi Vĩnh Phúc tạo ra các âm vang thì thầm, đầy hình ảnh… Đôi khi chúng ta đọc và như dường trôi lạc vào một thế giới thơ của Bùi Vĩnh Phúc.
Bùi Vĩnh Phúc là một nhà phê bình rất mực kỹ lưỡng. Trong bài viết về Mai Thảo, họ Bùi đã cho thấy anh đọc rất kỹ, rất nhiều... Bùi Vĩnh Phúc trong bài viết nhan đề"Văn chương Mai Thảo: biên địa của cảm xúc và cái đẹp, giao thoa với ý thức về đời sống" đã cho thấy cách làm việc rất mực kỹ càng, chu đáo. Tôi là một người hải ngoại cũng như Mai Thảo và Bùi Vĩnh Phúc. Tôi biết rằng tìm sách đọc rất hiếm ở hải ngoại, đặc biệt là các sách đã ấn hành trước 1975. Vậy mà, như dường Bùi Vĩnh Phúc đã đọc rất nhiều, hiển nhiên là từ thuở còn trong nước cho tới ngày ra hải ngoại. Hay có phải, trong cương vị dạy văn học Việt tại các đại học Hoa Kỳ tại Quận Cam đã cho Bùi Vĩnh Phúc một kho sách khổng lồ nào mà tôi chưa biết.
Khi nhận định về Mai Thảo, Bùi Vĩnh Phúc chia làm các thời kỳ, 1956-1960 với "Những tác phẩm chủ yếu trong giai đoạn này có thể được nhắc đến là: Đêm Giã Từ Hà Nội, Tháng Giêng Cỏ Non, và những đóng góp của ông (thảo luận, thư toà soạn…) trên Sáng Tạo." (trang 105)
Rồi họ Bùi viết về Mai Thảo thời 1960-1970 với "Những tác phẩm chủ yếu của giai đoạn này khá nhiều; có thể kể: Khi Mùa Mưa Tới, Cùng Đi Một Đường, Tới Một Tuổi Nào, Mái Tóc Dĩ Vãng, Sau Khi Bão Tới, Cũng Đủ Lãng Quên Đời, Mười Đêm Ngà Ngọc… và, đặc biệt, Căn Nhà Vùng Nước Mặn, Viên Đạn Đồng Chữ Nổi." (trang 105-106)
Rồi thời kỳ 1970-1975, Bùi Vĩnh Phúc gọi đây là thời kỳ dấn thân, nhập cuộc của Mai Thảo: "Giai đoạn ý thức về vai trò sáng tạo, vai trò của người nghệ sĩ. Cái nhìn của Mai Thảo mang nhiều màu sắc “dấn thân” hơn giai đoạn trước. Ngoài những tiểu thuyết feuilleton đăng hằng ngày, hằng tuần trên một số báo chí thời đó vẫn phải chảy theo một dòng thị hiếu như trong giai đoạn “hiện sinh”, tinh thần dấn thân và ý thức nhập cuộc của kẻ sáng tạo nơi Mai Thảo được thể hiện rõ nhất qua loạt tùy bút ông viết hằng tuần trên trang cuối của báo Khởi Hành do Viên Linh chủ trương. Bài tựa Đứng Về Phía Những Cái Mới mà Mai Thảo viết như một lời giới thiệu cho tập Tuyển Truyện Sáng Tạo, do chính Mai Thảo chọn, vào tháng 8 năm 1970, cũng đã nói lên được cái tinh thần dấn thân đó." (trang 106)
Và rồi thời kỳ 1987-hiện tại, nghĩa là thời kỳ lưu vong. Mai Thảo dưới nhận định của Bùi Vĩnh Phúc là: "...nổi bật nhất trong giai đoạn này vẫn là những ghi nhận về đời sống và về những sinh hoạt nghệ thuật (đặc biệt là văn học) ngoài nước qua mục Sổ Tay ông viết đều đặn hằng tháng trên báo Văn tục bản trong nhiều năm qua. Từ những ghi nhận về đời sống và văn học này, những hồi quang của kỷ niệm cũng có một cái nền rất… hôm nay để lấp lánh, rực rỡ trở lại." (trang 106)
Rất mực công phu. Cũng tương tự, khi viết về Võ Phiến, Bùi Vĩnh Phúc đã cho thấy cái nhìn sâu sắc. Kiểu như một nhà phê bình văn học nhận định về một nhà phê bình văn học khác. Bởi vì Võ Phiến bên cạnh vị trí người viết truyện ngắn, tùy bút, cũng là một nhà phê bình văn học.
Trong bài "Tiễn Võ Phiến (Phát biểu trong buổi tưởng niệm/lễ tang nhà văn Võ Phiến)" Bùi Vĩnh Phúc nói tổng quan về Võ Phiến, trích như sau:
"Hôm nay chúng ta tụ tập tại đây để đưa tiễn nhà văn Võ Phiến, một khuôn mặt lớn, một tác giả cột trụ của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Tôi gọi ông là một nhà văn lớn, một tác giả cột trụ, vì trong suốt 90 năm sống như một con người Việt, và với khoảng 70 năm cầm bút, từ trong nước ra đến hải ngoại, ông đã làm giàu có, làm phong phú thêm cho nền văn học Việt Nam biết bao. Bằng chữ viết, cũng như bằng tư tưởng của mình.
Trong văn học, Võ Phiến đã tung hoành trên nhiều lĩnh vực, và gần như trong lĩnh vực nào ông cũng ghi được những dấu ấn đậm nét. Ông là một con người của quê hương đất nước, và, để nói về đất nước quê hương, có lẽ tuỳ bút là thể văn sở trường nhất của ông (mặc dù, như đã nói, Võ Phiến cũng đã thành công trên nhiều lĩnh vực văn học nghệ thuật khác trong cuộc đời sáng tạo của mình) để ông phô diễn những tình cảm, ý tưởng và thiết tha của ông cho người và cho đất. Cái nhìn của Võ Phiến tinh sắc, thông minh. Chữ nghĩa của ông duyên dáng, sống động, hóm hỉnh. Và kiến thức rộng rãi của ông bao gồm nhiều mặt, kể cả các mặt về ngôn ngữ, lịch sử, địa lý, xã hội, dân tộc học, và văn học." (trang 199)
Trong một bài viết nhiều năm trước đó, Bùi Vĩnh Phúc tâm sự rằng Võ Phiến đã mở ra một bầu trời quê hương trong chiến tranh tàn khốc, khi Bùi Vĩnh Phúc còn là một học sinh lớp đệ thất (lớp 6 bây giờ). Anh viết, với giọng văn cảm động khi nhìn thấy một bầu trời văn học độc đáo.
Trong bài viết nhan đề "Nghĩ về Võ Phiến và cuốn Văn Học Miền Nam, Tổng Quan" Bùi Vĩnh Phúc hồi tưởng:
"Tôi được tiếp xúc lần đầu với Võ Phiến qua tác phẩm Giã Từ. Thuở ấy là vào khoảng năm 1962, 1963, có lẽ tôi đang học lớp Đệ thất (lớp 6). Dạo đó, lòng tôi còn trong sáng; nhưng quyển sách của Võ Phiến đã mở bùng ra trước mắt tôi cả một vùng trời vùng đất quê hương trong chiến tranh tàn khốc. Tôi đã thấy người ta tản cư, chạy giặc, báo động, khóc lóc... trong cuốn sách này. Tôi đã thấy đời sống mình không còn chỉ là đời sống của mình, nhưng còn là đời sống của những người khác, những người đã chia sẻ một phần đất ở trên quê hương tôi, những người đã chia sẻ với tôi một dòng máu đỏ chảy mãi từ những ngày xa xôi huyền sử. Võ Phiến làm tôi đi ra khỏi cái thế giới nhỏ bé và yên ổn của mình để xúc động với những đời sống, những thế giới khác. Thế nhưng, để đền bù cho sự tàn phá (?) cái đời sống cũ êm đềm của tôi, Võ Phiến đã giới thiệu với tôi những nhân vật rất lạ và rất dễ thương mà ông đã từng quen biết.
Những nhân vật được Võ Phiến vẽ tả lại trong Giã Từ đều có một nét gì đó rất đậm đà chân chất, pha với sự dí dỏm và hiền lành tự nhiên vốn sẵn của những con người đã phơi ngửa định mạng mình trên những vùng đất quê hương còm cõi. Những con người giản dị như con cá lá rau nhưng có một tấm lòng rộng lớn thiết tha để có thể ôm chặt quê hương vào lòng. Bởi thế, khi "giã từ" những con người quê hương ấy, Võ Phiến không khỏi nao lòng." (trang 178-179)
Hàng đầu: nhà thơ Phan Tấn Hải, nhà thơ Vương Ngọc Minh, nhà thơ Hoàng Hưng, nhà nghiên cứu, phê bình văn học Bùi Vĩnh Phúc và phu nhân. Hàng sau: nhà văn Đặng Thơ Thơ, họa sĩ Ngọc, nhà thơ/nhà văn Nguyễn Đức Tùng và phu nhân, nhà thơ/dịch giả Trịnh Y Thư.
Trước khi lên San Jose để làm báo Việt Mercury và sau đó làm tờ tuần báo riêng, nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng có nhiều năm điều hành nhật báo Người Việt. Tôi biết rằng công việc trong một tờ nhật báo rất là nhức đầu, mệt nhọc và có lẽ không phù hợp với hầu hết các nhà văn, nhà thơ. Trong khi các nhà báo viết xuống những bản tin hay bài viết hàng ngày, họ biết rằng 24 giờ sau là bản tin đó và bài viết đó sẽ bị quên đi. Và nếu số báo đó tình cờ gặp lại nơi một góc nhà, góc xe thì tờ báo đó sẽ dễ dàng bị quăng bỏ vào thùng rác. Trong khi đó, tôi tin rằng, khi Nguyễn Xuân Hoàng sáng tác tiểu thuyết hay truyện ngắn, hay thậm chí là một tùy bút về mùa xuân hay về một hình ảnh nơi quê nhà, anh cũng tin rằng tác phẩm đó có thể sẽ được độc giả nhớ tới vài thập niên sau.
Nhưng thực tế là, nhà văn và nhà thơ không thể sống nổi nơi hải ngoại, và do vậy, phải đóng vai nhà báo trên các bước đường lưu vong. Tôi luôn luôn nghĩ tới những suy diễn linh tinh như thế, từ vị trí cá nhân của bản thân mình. Dĩ nhiên, chỉ là suy đoán thôi. Nhưng quá khứ của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng hiển nhiên là được nhớ hơn rất nhiều so với công việc điều hành một nhật báo hải ngoại. Bùi Vĩnh Phúc trong vai trò phê bình văn học đã không hề nhắc gì tới sự nghiệp làm báo của Nguyễn Xuân Hoàng, kể cả chức vụ rất quyền lực trong tuần báo Việt Mercury của báo San Jose Mercury News, nơi trong nhiều năm đã nuôi sống một số người cầm bút, trong đó có nhà thơ Phạm Việt Cường. Tôi đoán, trong trí nhớ Bùi Vĩnh Phúc, tác phẩm của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, như các tuyển tập truyện ngắn như Mù Sương, Sinh Nhật, các truyện dài như Người Đi Trên Mây, Sa Mạc… và những bài “Sổ Tay” được lưu giữ lâu hơn là các chặng đường làm báo sôi nổi của nhà báo Nguyễn Xuân Hoàng. Và hiển nhiên là, những đóng góp trong cương vị nhà văn, với chất liệu của nhiều thập niên nghề báo, là những gì độc đáo và đáng nhớ nhất của Nguyễn Xuân Hoàng cho nhiều thế hệ sau.
Hãy nhớ rằng nhà báo là người nhìn vào hiện thực đời thường, và nhà văn là người bay bổng trên các trang giấy hư cấu. Có gì chen lẫn nhau giữa hai thế giới hiện thực và hư cấu này?
Trong bài viết nhan đề "Một sổ thông hành để đi vào trái tim đời" dùng làm Tựa cho Sổ Tay của Nguyễn Xuân Hoàng, nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc đã nhận định như sau, trích:
"…Hiện thực được nhìn ngắm và quán chiếu ở một độ gần và sâu. Nhưng, như trong một đoạn khác, Nguyễn Xuân Hoàng đã viết, cũng như một cách tự nhắc nhủ mình: "Tôi vẫn nghĩ đôi khi hư cấu không bắt kịp hiện thực." Đúng như vậy. Cuộc sống thiên biến vạn hoá và đầy những bất ngờ, những điều không thể nào tiên liệu được. Hiện thực là một cái gì hết sức vũ đoán. Bản chất của nó là hư cấu, một nhà thơ châu Mỹ La-tinh, Juan Calzadilla, đã nói như vậy. Thực sự, hiện thực còn là một cái gì hư cấu hơn cả hư cấu nữa. Bởi lẽ, để hư cấu, thường, tối thiểu, người ta cũng phải tuân thủ một số luật tắc nào đó. Còn hiện thực, hãy nhìn mà xem, nó có chịu chấp nhận một nguyên tắc nào đâu. Bởi thế, Sổ Tay, một thứ giấy nháp, để viết xuống, để mô tả những khuôn mặt và những xung động của đời, cũng chỉ là ghi nhận lại những điều hư cấu. Nhưng, với một trái tim.
Giá trị của sổ tay là ở mắt nhìn, ở cách quan sát. Nhưng, dĩ nhiên, tất cả những điều ghi chép ấy phải bập bùng một ánh lửa phía sau. Ánh lửa bập bùng ấy nằm trong trái tim của người viết.
Nguyễn Xuân Hoàng có một trái tim bập bùng ánh lửa như thế. Ông viết về những điều xảy ra quanh mình, những điều bất cứ một người nào khác cũng có thể thấy. Nhưng những hình ảnh mà ông ghi nhận xuống, để thành những con chữ nhẩy múa trước mắt người đọc, đã được lọc qua một lăng kính đặc biệt của riêng ông. Chúng phản chiếu cái ánh sáng cháy đỏ, ấm nóng của những ánh lửa trong trái tim nhà văn. Cái ánh sáng ấy làm cho những hình ảnh thô tháp, tầm thường trong đời sống trở nên lấp lánh, và, đôi khi, như trộn lẫn trong chúng âm thanh của những tiếng nhạc, những bài hát mà chúng ta đã nghe đâu đó, trong đời." (trang 273-274)
Nhà thơ Tô Thùy Yên có một vị trí đặc biệt trong không gian phê bình của Bùi Vĩnh Phúc. Tô Thùy Yên làm thơ hay, dĩ nhiên là ai cũng biết. Bùi Vĩnh Phúc cũng để ra nhiều trang để phân tích về thi ảnh và ngôn ngữ của Tô Thùy Yên, cũng phân tích về con ngựa chở theo thời gian lịch sử phóng tới trong cõi thơ Tô Thùy Yên. Nhưng Bùi Vĩnh Phúc nhìn thấy một khía cạnh khác, rằng nhà thơ đã thấy được cái “hiền triết” và “u hiển” của đất trời (trang 404). Và rồi, Bùi Vĩnh Phúc nhìn thấy Tô Thùy Yên đang nói chuyện với trăng sao.
Bài viết rất mực siêu hình và thơ mộng có nhan đề “Tô Thùy Yên: thơ, như một vinh dự lầm than của kiếp người” của Bùi Vĩnh Phúc ghi nhận về thơ Tô Thùy Yên đang phản chiếu ánh sáng u áo của vũ trụ, trích:
"Nhưng, những khi đêm xuống, thu góp lại những mảnh hồn rách nát của mình, nhà thơ ngồi nói chuyện với những vì sao cô độc trên cao. Cuộc tâm sự kéo dài bất tận. Ông ngồi nói chuyện với từng tinh tú một. Hình ảnh bãi lân tinh thức, trên cao, sáng âm u, kỳ diệu, từ mái đầu của nhà thơ, lung linh lấp lánh bao ý nghĩ vượt lên trên trời cao, là một thi ảnh rất lạ. Cái đầu như loé lân tinh. Hay như một điểm kết tập và phản chiếu ánh sáng u ảo của vũ trụ. Nó là một điểm phản ánh những hồi quang và những kỳ bí thẳm sâu của vũ trụ mênh mông xa tít. Cái đầu, bây giờ, là nơi trời đất, vũ trụ, thời gian, không gian và những mối cảm xúc, u hoài, sầu nhớ, chứng tỏ sự có mặt của chúng. Cái đầu, địa bàn hoạt động với diện tích thu nhỏ lại của tất cả những sức mạnh bên trong và bên ngoài con người. Và bãi lân tinh vẫn tiếp tục thức, âm u sáng, để đối thoại với điểm sáng nhỏ nhoi ở dưới kia, thi sĩ. Trong sự sáng vẫn còn cái âm u mang mang rợn ngợp của những sức mạnh siêu hình." (trang 420)
Bùi Vĩnh Phúc gọi thơ Tô Thùy Yên là “sự trao ban” – một khái niệm của Thiên Chúa Giáo. Và do vậy, theo khái niệm siêu hình này, Tô Thùy Yên là kẻ được chọn, là kẻ phải đau đớn với chữ nghĩa, với thi ca, với phận người đau khổ, để sẽ bật lên những dòng thơ đầy u hiển, đầy những vinh dự lầm than. Trong bài viết dẫn trên, Bùi Vĩnh Phúc viết, trích:
"Sự trao ban ấy thật là kinh khủng. Bởi lẽ, kẻ nhận chịu sự trao ban ấy sẽ phải sống những kinh nghiệm của hắn. Sống không, chưa đủ. Phải viết lên, phải nói ra, phải tàn rụng đi vì những đau khổ và phải tái sinh để tiếp tục sống những khổ đau ấy. Và chứng minh rằng đau khổ xác định và bừng hoá những giá trị con người.
Tô Thùy Yên là kẻ được chọn. Cũng là kẻ được trao ban. Và như một con người Việt Nam, ông đã sống vượt lên và vượt qua, trong một nghĩa nào đó, những kinh nghiệm, những cảm xúc và những suy tư của con người thời đại nói chung. Những giọt nước của trí tuệ và cảm xúc, hắt lên phần đất Việt Nam, nơi những con sóng dâng lên từ Tây Phương và Âu Mỹ kia, ông có tiếp nhận. Ông trải nghiệm được cái sức sống và hơi mát trong sự tiếp nhận ấy. Nhưng cuộc đời của một con người Việt Nam, đặc biệt của một nhà thơ Việt Nam, như Tô Thùy Yên, đã đẩy ông chạm mặt với sự đau khổ và cô đơn ngay trong tình yêu, chạm mặt với chiến tranh, với cái chết, với cái bao la rờn rợn mang mang của vũ trụ đang đè lên kiếp sống mỏng manh, heo hắt, chỉ chợt loé tàn của kiếp người. Cái siêu hình ấy chụp bắt lấy nhà thơ và đẩy hắn trở về đối mặt với chính nó trong cõi con người. Ở đó, hắn lớn lên. Hắn trở thành lớn lao. Nhưng khốn khổ. Ta lớn lao và ta cô đơn." (trang 372-373)
Cuối đoạn vừa dẫn là bảy chữ “Ta lớn lao và ta cô đơn” là từ bài thơ "Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai" của Tô Thùy Yên, một bài thơ dài 17 đoạn, mỗi đoạn 4 dòng, mỗi dòng 7 chữ. Hình ảnh cô đơn và lớn lao này ghi lại trong đoạn thơ:
Hoàng hôn xô bóng ta trên cát
Ta lớn lao và ta cô đơn
Ngưỡng mộ cây xương rồng gắng gượng
Thân trần đứng lẻ giữa đồng trơn.
Nói gọn, tuyển tập phê bình văn học "9 Khuôn Mặt. 9 Phong Khí Văn Chương" của Bùi Vĩnh Phúc là một công trình nghiên cứu và phê bình rất hiếm hoi. Nơi đây, Bùi Vĩnh Phúc hiện ra như một người viết phê bình hệt như làm thơ, với những trang văn có thể được chúng ta đọc đi đọc lại nhiều lần để cảm nhận chất thơ, như nghe một ca khúc nhiều lần, và mỗi lần đọc lại là vẫn có cảm giác như rất mới. Hy hữu. U hiển và hiền triết.
California, tháng 4/2024.