Nguyễn Phạm Hùng(*)
Việc xác định vai trò xây nền đắp móng cho ngành nghiên cứu lịch sử văn học ở Việt Nam của Việt Nam cổ văn học sử([1]) đã được khẳng định cách đây 20 năm, nhân kỷ niệm 80 năm ngày sinh Giáo sư Nguyễn Đổng Chi, với sự ra đời một cuốn sách do NXB Khoa học xã hội ấn hành vào năm 1997, Nguyễn Đổng Chi - Người miệt mài tìm kiếm các giá trị văn hóa dân tộc([2]). Cuốn sách đã khẳng định Nguyễn Đổng Chi là “nhà văn học sử mở đường”, với bài viết công phu của Trần Thị Băng Thanh, cho rằng Nguyễn Đổng Chi là “người phát hiện nền Việt Nam cổ văn học sử”([3]), với những đóng góp quan trọng nhiều mặt như đây là “bộ lịch sử đại cương về văn học Việt Nam năm thế kỷ đầu” thời kỳ tự chủ, là “một nguồn tài liệu phong phú” về văn học thời kỳ này, là một công trình khoa học mang “những gợi ý có giá trị chỉ dẫn” cho các nghiên cứu văn học sử tiếp theo, và là “một bộ sách có đóng góp mới về phương pháp viết lịch sử văn học”. Cũng trong cuốn sách này, một tiểu luận đáng kể khác của Nguyễn Đăng Na nhấn mạnh giá trị khoa học của “phương pháp viết văn học sử của Nguyễn Đổng Chi”([4]).
Bài viết dưới đây của chúng tôi nêu lên một số đóng góp mới quan trọng của Việt Nam cổ văn học sử để góp phần hình dung đầy đủ hơn về những cống hiến khoa học của công trình này vào sự phát triển của ngành nghiên cứu văn học sử Việt Nam hiện nay. Chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh những giá trị hiện đại, giá trị phương pháp, khả năng vượt thời gian trong những cống hiến khoa học xuất sắc mang tính định hướng của công trình này.
*
* *
Việt Nam cổ văn học sử được khởi soạn vào khoảng 1938, hoàn thành vào giữa năm 1940 tại Mộng Thương Thư trai, và được Hàn Thuyên xuất bản cục phát hành năm 1942. Từ khi mới xuất hiện đã có một tiếng vang lớn trong học giới. Công trình này không phải là tác phẩm đầu tiên viết về văn học sử Việt Nam. Theo như lời “Tựa” sách của học giả nổi tiếng Trần Văn Giáp, thì “năm 1918, ông G. Cordier người Pháp viết quyển Littérature Annamite, đem những bài Hán văn đã dịch ra Việt âm rồi, trộn lẫn với Việt văn, miễn là của các cụ Việt Nam thì thôi, xếp những sách các cụ ta viết bằng Hán văn vào thời kỳ thứ hai trong Việt Nam văn học sử (Histoire de la Littérature Annamite)”([5]). Hay như “năm 1924, Đỗ Hữu Dương là người của Viện Cổ học Huế có biên tập một quyển Hán tự văn học khảo chép từ vua An Dương đến đời Hồ”([6]). Và thêm nữa, “năm 1932, Văn học tạp chí ở Hà Nội có đăng dần một quyển Lược khảo về văn học sử nước ta của Hải Lượng, nhưng quyển này nói chung sơ sài…”([7]). Ngoài ra, chúng ta còn thấy vào năm 1941, Nhà xuất bản Tân hóa cũng ấn hành một cuốn văn học sử sơ giản của Nguyễn Sĩ Đạo, có tên Đại Việt văn học lịch sử([8]). Và sau đó, năm 1943, Nha học chính Đông Pháp xuất bản một cuốn giáo khoa dùng trong nhà trường trung học trước 1945, thuộc chương trình “Trung học Việt văn giáo khoa thư” của nhà giáo Dương Quảng Hàm, là cuốn Việt Nam văn học sử yếu([9]). Đây là cuốn sách giáo khoa bậc trung học phổ thông, viết theo tiến trình lịch sử, có cả phần trích giảng văn chương, cung cấp những kiến thức sơ lược nhưng khá nhiều mặt về văn học sử Việt Nam, cả văn học viết và văn học dân gian. Ngoài ra, cũng trong thời gian này, nhà văn Ngô Tất Tố cho công bố hai cuốn biên khảo về văn học thời Lý - Trần, đó là cuốn Việt Nam văn học - Văn học đời Lý, và Việt Nam văn học - Văn học đời Trần([10]). Hai cuốn biên khảo này có giá trị nhất định trong nghiên cứu và giới thiệu những vấn đề lịch sử, xã hội và văn học thời kỳ Lý - Trần. Nhưng đây không phải là những cuốn văn học sử, nên không mang chức năng của sử văn học.
So với các tác phẩm trước và cùng thời, công trình nghiên cứu Việt Nam cổ văn học sử của học giả Nguyễn Đổng Chi có một vị trí rất đặc biệt. Đây có lẽ là cuốn sử văn học đúng nghĩa đầu tiên trong ngành nghiên cứu sử văn học của Việt Nam. Hơn nữa, đây là cuốn sử văn học nổi bật nhất, nhiều thành tựu nhất, phương pháp và tư duy khoa học nhất, toàn diện và đầy đủ nhất đương thời về văn học cổ Việt Nam. Khi viết cuốn sử văn học này, Nguyễn Đổng Chi không chỉ kê cứu kỹ lưỡng tư liệu, sử dụng phương pháp và hình thức phù hợp của một cuốn sử văn học, mà còn tham chiếu tất cả những cuốn sử văn học khác, để tìm ra một lối viết sử khả dĩ nhất, bởi vì ông nhận thấy, các cuốn sử văn học trước đó hoặc hiện thời đều có “một chỗ đáng phàn nàn hơn cả là vì không có não khoa học”([11]), tức là không có tư duy khoa học về sử văn học.
Vì thế, nếu nói Nguyễn Đổng Chi là người phát hiện ra ngành nghiên cứu văn học sử cũng không phải không có căn cứ. Nhưng hơn thế, cuốn sách đã đặt nền tảng vững chắc cho ngành khoa học này. Dù không phải là công trình phổ dụng và đại chúng như những cuốn sách giáo khoa trung học viết theo lịch sử thời bấy giờ, như Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, vốn được xem là tương ứng với những cuốn sách giáo khoa phổ thông trung học ngày nay, nhưng Việt Nam cổ văn học sử có vị trí khác hẳn, nó thuộc loại sách nghiên cứu chuyên ngành, được xếp cùng với những cuốn sử văn học ở bậc cao đẳng và đại học, tức là vượt khỏi tri thức phổ thông để đạt tới tầm tri thức nghiên cứu, chuyên sâu.
Có thể công trình này còn có điểm chưa toàn bích, nhưng đây quả thực là một công trình khoa học nghiêm túc và cẩn trọng, nhiều nội dung có chất lượng rất cao so với đương thời. Đúng như đánh giá của học giả Trần Văn Giáp: “Ông Nguyễn Đổng Chi là người đạt kiến, trông rõ hơn những người trước ông. Sách này tuy chưa dám đoán định là toàn bích, không phải không thể suy mao cầu tỳ được, nhưng làm theo phương pháp mới, rất công phu, tra cứu kỹ càng, sưu tập cẩn thận… Sách làm không những là có thể tài, có phán đoán, có phương pháp…"([12]). Cho đến nay, những thành tựu trong cuốn sách của Nguyễn Đổng Chi vẫn còn nguyên giá trị, và lời đánh giá của Trần Văn Giáp cũng còn nguyên giá trị, thậm chí, có lẽ cũng chưa có lời đánh giá nào súc tích và sâu sắc hơn thế.
Xét về ý nghĩa khoa học, so với đương thời, Việt Nam cổ văn học sử là công trình văn học sử có sức sống lâu bền nhất, đặt ra nhiều vấn đề khoa học nhất, có trình độ cao nhất trong lý luận và biên khảo. Điều đó càng được đánh giá cao hơn bởi đây là công trình được viết ra bởi sự thôi thúc của trái tim nhiệt huyết với văn hóa, văn học và học thuật nước nhà trong buổi mất nước, chứ không đơn thuần chỉ là công trình được thực hiện bởi đơn đặt hàng hay theo nhu cầu trực tiếp của việc giáo dục, đào tạo buổi đó. Chúng ta thực sự kinh ngạc khi biết rằng công trình rất giàu hàm lượng khoa học, già giặn và chín chắn trong khảo cứu, biện giải này lại là thành quả lao động của một người rất trẻ và thành công cũng rất sớm trên nhiều lĩnh vực của ngành khoa học xã hội và nhân văn, như sáng tác, dịch thuật, biên khảo, nghiên cứu… Ông Nguyễn Đổng Chi sinh năm 1915, năm 1935, khi mới 20 tuổi đã cho xuất bản tác phẩm Yêu đời; năm 1937, khi 22 tuổi ông xuất bản hai tác phẩm nổi tiếng Túp lều nát và Mọi Kontum([13]); năm 1940 ông hoàn thành Việt Nam cổ văn học sử và xuất bản năm 1942, khi mới 27 tuổi; tiếp đấy năm 1943, 28 tuổi, ông biên soạn công trình sử học về Đào Duy Từ, được giải thưởng của Học hội Alexandre de Rhodes. Ông thuộc “thế hệ vàng” những nhà khoa học lớn của Việt Nam, được đào tạo trong môi trường học thuật nghiêm túc và chất lượng cao, vẫn là mẫu mực cho giáo dục, đào tạo bây giờ.
Đây không chỉ là cuốn văn học sử đầu tiên có phương pháp tiếp cận đối tượng toàn diện, đầy đủ, khách quan và khoa học nhất, mà còn là công trình thể hiện vốn kiến thức sâu rộng, sức khái quát và khả năng tư duy lý thuyết cao của tác giả. Vốn kiến thức trong sách này thực rất rộng, trên nhiều lĩnh vực văn học – sử học – triết học – ngôn ngữ – tư tưởng – tôn giáo – địa dư – nhân học – xã hội học… Cùng với đó là khả năng tiên liệu, khả năng phát hiện quy luật vận động của lịch sử văn học, thái độ tôn trọng hiện thực lịch sử trên từng văn liệu và sử liệu…, cho ta thấy tinh thần làm việc thực sự nghiêm túc và có trách nhiệm của tác giả. Độ chính xác của óc suy xét, phán đoán đối với lịch sử văn học ngay buổi sơ khai đã được chứng minh sau hơn 70 năm qua. Đây quả là một cuốn sách có quá nhiều quan điểm chính xác và kiến thức bác văn.
Việc nghiên cứu văn học sử ở Việt Nam lúc đó thực chưa có tiền lệ, chưa có một khuôn mẫu để làm theo, vì thế nó đòi hỏi người nghiên cứu phải tự mình phát minh, phải xây dựng một mô hình học thuật phù hợp. Điều này đã xảy ra đối với tất cả những công trình liên quan tới vấn đề văn học sử thời này, kể cả với sách giáo khoa trung học. Nhưng xét thấy, mô hình văn học sử của Nguyễn Đổng Chi là sát hợp với các khoa học hiện đại nhất. Thậm chí, xét từ hạt nhân hợp lý của nó, thì theo chúng tôi, đây là một mô hình có tính lý tưởng cho cả hiện nay.
Cũng có thể nói không quá rằng công trình này là tập đại thành đầu tiên về lịch sử văn học từ khởi đầu đến hết thời Hồ, trong mối quan hệ hữu cơ, đa dạng với lịch sử, triết học, nhân học, địa dư, chính trị, tôn giáo, văn hóa dân gian… Cho đến nay không phải cuốn sử văn học nào cũng có được cái phông văn hóa rộng lớn như thế. Thậm chí nhiều vấn đề của văn học cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI đã được tiên liệu và đề cập tới ở đây, như vấn đề tính toàn vẹn và thống nhất của lịch sử văn học, vấn đề văn học hải ngoại, vấn đề khuynh hướng văn học, hay vấn đề giải thiêng Trung Hoa… Nhiều vấn đề khoa học được đặt ra trong Việt Nam cổ văn học sử mà đến đầu thế kỷ XXI vẫn còn là mới mẻ với nhiều người nghiên cứu văn học sử. Để thấy rõ hơn giá trị của công trình khoa học này, chúng tôi xin chỉ đi vào cụ thể ba vấn đề có tính tiên phong của cuốn sách, là vấn đề nghiên cứu văn học sử theo phương pháp thể loại, vấn đề tính toàn vẹn của lịch sử văn học Việt Nam và vấn đề văn học hải ngoại Việt Nam.
1. Vấn đề nghiên cứu văn học sử theo phương pháp thể loại
Như đã nói, Trần Văn Giáp nhận xét, “sách làm theo phương pháp mới, rất công phu, tra cứu kỹ càng, sưu tập cẩn thận… Sách làm không những là có thể tài, có phán đoán, có phương pháp…”. Chúng tôi thấy công trình này không chỉ được thực hiện bởi một phương pháp, mà nhiều phương pháp, mà thấy rõ là phương pháp liên ngành. Trong cuốn sách này, chúng ta thấy tác giả là một người có “óc khoa học” rất khách quan và mạch lạc, luôn nhìn nhận sự vật trong mối liên hệ đa chiều và đa dạng của nó. Vì vậy việc dựng lại lịch sử văn học trước yêu cầu thể hiện như nó vốn có và mang tính lịch sử cụ thể đã đòi hỏi tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, như cách gọi ngày nay. Đó là các phép nghiên cứu về ngữ học – văn học – sử học – triết học – địa dư học – nhân học – văn hóa học…, mà ngày nay không phải ai cũng thông thạo, được vận dụng đồng loạt trong tác phẩm. Chúng ta thật ngạc nhiên trước một vốn kiến thức uyên thâm về nhiều lĩnh vực khác nhau được tác giả sử dụng cho việc nhận diện văn học trong những mối quan hệ hữu cơ và biện chứng, từ việc khảo về gốc gác của người Việt đến tìm hiểu cỗi rễ tiếng Nam và chữ viết đời thượng cổ, từ khảo sát tư tưởng học thuật nước Tàu buổi quá khứ, đến triết lý tôn giáo Ấn Độ buổi đầu… Về mặt lịch sử, bằng óc quan sát khoa học, tác giả đã lần lượt khảo tả khá kỹ lưỡng về tình hình lịch sử xã hội của Việt Nam từ đời cổ đến Sĩ Nhiếp, rồi từ Sĩ Nhiếp đến Ngô Quyền, và càng kỹ lưỡng hơn đối với các triều đại tự chủ có nhiều thành tựu văn học như Lý - Trần - Hồ. Về tôn giáo, triết học, tác giả đã vận dụng nhiều kiến thức về đạo Phật, Nho, Lão và tư tưởng tam giáo đồng nguyên, về triết lý phái Thiền tông, về đạo Phật và ba vị tổ Trúc Lâm, thậm chí cả về phương thuật… để tìm lời giải cho các hiện tượng văn học tương ứng, khiến cho việc lý giải tư tưởng và hình thức văn học là có những căn cứ lịch sử xã hội khách quan chứ không suy diễn hay võ đoán.
Để đảm bảo cho một cái nhìn toàn diện về văn học, nhất là lý giải cho sự hiện diện của các hiện tượng văn học, tác giả cũng không quên sử dụng hàng loạt kiến thức về giáo dục, thi cử của đương thời, thậm chí cả những kiến thức về binh học, sử học, địa dư học, pháp luật, hình luật và điển lễ, hay đến cả nghề khắc ván in, vốn cũng có ảnh hưởng tới việc lưu truyền văn học đương thời. Tức là tác giả không chỉ chú ý đến bản thân tác phẩm văn học, mà còn chú ý tới cả chủ thể tác giả được hình thành trên những nền tảng nào, cũng như đối tượng tiếp nhận là các độc giả, điều rất quan trọng trong lý thuyết tiếp nhận hiện đại. Ngay từ thời đó, cuốn sách đã cung cấp một phông kiến thức văn hóa khá rộng rãi và vững chắc cho người đọc. Không chỉ am tường Hán văn và các lĩnh vực văn hóa bác học, tác giả còn có kiến thức sâu sắc về nhiều lĩnh vực của văn hóa dân gian, của folklore, nhất là lĩnh vực nghệ thuật dân gian, vốn là những anh em sinh đôi với văn học viết, như hát chèo, hát tuồng, cải lương và hát ả đào… để làm rõ hơn và phong phú hơn lịch sử văn học.
Bằng phương pháp văn bản học, cuốn sách đã cung cấp “một nguồn tài liệu phong phú” về văn học thời kỳ này. Quả tình, cho đến lúc bấy giờ, cuốn sách này là tài liệu đầy đủ nhất, phong phú nhất nguồn văn liệu từ thời kỳ đầu đến hết thời Hồ, giúp cho độc giả hình dung được những nét cơ bản nhất của lịch sử văn học dân tộc trên 10 thế kỷ đầu. Đây là một cuốn văn học sử, không phải là nghiên cứu văn bản học, nên việc giới thiệu văn bản tác phẩm không phải là mục đích chính. Nhưng trong điều kiện tác phẩm văn học cổ còn rất xa lạ đối với mọi người, thì việc nghiên cứu và giới thiệu tư liệu văn học cũng được xem như một cách tiếp cận khách quan đối với lịch sử văn học. Việt Nam cổ văn học sử đã cung cấp một nguồn tư liệu phong phú về văn học. Nhưng quan trọng hơn, tác giả đã xếp chúng vào những ô thể loại hay những ô tư tưởng nghệ thuật để nhận diện và phân loại, nên không ôm đồm, lộn xộn, chồng lấn, mà rành mạch, sáng tỏ. Thậm chí ở nhiều tiết, mục, do chưa có điều kiện “luận” nhiều và kỹ, tác giả đã dùng chính nguồn văn liệu được “khảo” và “dịch” để thay thế, để chúng tự nói lên tư tưởng.
Nhưng điều chúng tôi quan tâm nhất về phương pháp nghiên cứu trong công trình này là phương pháp nghiên cứu lịch sử văn học theo thể loại. Như đã nêu, việc viết văn học sử ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX chưa có tiền lệ, chưa có khuôn mẫu hay mô hình, vì vậy người viết phải tự xây dựng mô hình, xây dựng khung xương giá đỡ cho cuốn sách. Mô hình và khung xương của cuốn sách này chính là quan niệm về văn học và hệ thống thể loại văn học tiêu biểu của thời đại. Theo Nguyễn Đổng Chi, quan niệm về văn học thời kỳ này không giống thời cận hiện đại. Nó bao gồm nhiều loại hình văn bản khác nhau, của nhiều lĩnh vực khác nhau, không chỉ là “văn - sử - triết bất phân”, mà còn có thể bao gồm cả những văn bản thuộc các lĩnh vực tôn giáo, giáo dục, khoa cử, hình luật, địa dư… Dường như quan điểm này có phần tỏ ra hợp lý và đáp ứng tính lịch sử đối với khái niệm “văn” thời cổ xưa. Quan điểm này 35 năm sau được Nguyễn Huệ Chi triệt để kế thừa trong công trình “Khảo luận văn bản”, Thơ văn Lý - Trần([14]) nhằm xác định hệ thống thể loại văn học thời kỳ này như là căn cứ quan trọng nhất để nhận diện toàn bộ diện mạo và đặc điểm của văn học Lý - Trần, với những biện luận chặt chẽ và thuyết phục hơn, dù mở rộng biên độ tới “văn nói” như là một loại hình văn học.
Đây là quan điểm văn học sử vô cùng quan trọng và hoàn toàn mới mẻ so với đương thời, thậm chí đối với cả hiện nay. Quan điểm và phương pháp này không chỉ chi phối toàn bộ cấu trúc và hình thức của cuốn sách, mà còn chi phối toàn bộ cách tiếp cận nội dung và tư tưởng của văn học như nó vốn có. Điều này không phải ngẫu nhiên. Nguyễn Đổng Chi rất quan tâm tới hình thức của văn học. Thậm chí ông cho rằng hình thức mới là cái quyết định đặc điểm và diện mạo của văn học, trong đó có cả tư tưởng văn học. Ông viết về sự kiềm chế của hình thức văn học Trung Hoa đối với Việt Nam, rằng: “Hình thức đã bị kiềm chế thì tinh thần cũng ảnh hưởng theo”([15]). Vì thế mà lịch sử văn học được ông hình dung một cách rành mạch và sáng tỏ qua hệ thống các thể loại văn học chính trong các thời kỳ khác nhau. Đứng ở một góc độ nhất định, ông còn đi trước M. Bakhtin về vấn đề này. M. Bakhtin cho rằng, thể loại là "nhân vật chính của tấn kịch lịch sử văn học... thể hiện thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực, cách cảm thụ, giải minh thế giới, nơi đúc kết, tích luỹ những kinh nghiệm nhận thức thẩm mỹ thế giới. Mỗi thời đại có hệ thống thể loại của mình, trong đó những thể loại chính thể hiện tập trung nhất tâm thức, tầm nhìn, những mối quan tâm, những chuẩn mực và quan niệm của con người trong thời đại đó... Lịch sử văn học trước hết là lịch sử hình thành, phát triển, tương tác giữa các thể loại"([16]). Trước mắt chúng ta, bức tranh văn học trở nên sáng tỏ hơn bao giờ hết chính nhờ vào sự hiện diện của các nhân vật chính của tấn kịch lịch sử văn học từ khởi thủy cho đến hết đời Hồ trong sách này, cụ thể là: Thời Ngô - Đinh - Lê (930-1009) gồm các thể loại chính: tản văn, thơ ca, văn chương tôn giáo, sấm ký, vận văn quốc âm (thơ ca dân gian). Thời Lý (1010-1025) gồm các thể loại chính: thơ ca, tạp văn, tản văn, văn hịch và binh học, sử học, địa dư học, pháp luật, hát chèo, hát tuồng… Thời Trần (1025-1380) gồm các thể loại chính: văn cải cách việc nước, văn giao thiệp với ngoại quốc, hình luật và điển lễ, lối diễn thuyết về quân sự, sử học, sử ký phê bình, văn tiểu thuyết, văn ngụ ngôn, lý luận chính trị, thơ ca, phú, tạp văn, văn quốc âm, thơ ca bình dân, hát tuồng, cải lương, hát ả đào… Thời Hồ (cầm quyền 1380-1399, làm vua 1400-1407) gồm các thể loại chính: văn phê bình, thơ ca, các lối thơ mới, văn ký sự, sử học, sách vở phương thuật, văn chương quốc âm, văn dịch…
Việc gọi tên và xác định nội hàm thể loại có thể còn những điều phải bàn, song nhìn vào cấu trúc này, chúng tôi cơ bản đồng tình với tác giả, và nhất là chúng tôi đồng tình tuyệt đối với tác giả ở chỗ ông đã hình dung văn học đúng là một bộ môn nghệ thuật ngôn từ được hiện ra một cách vật chất bởi các văn thể của nó. Chúng tôi cho rằng, cần đặc biệt quan tâm tới quan điểm và phương pháp này vì nó có rất nhiều ưu điểm có thể khắc phục được tình trạng thiếu thống nhất trong quan điểm và phương pháp viết văn học sử hiện nay, cũng như có thể đảm bảo tốt nhất cho tính thống nhất và toàn vẹn của lịch sử văn học.
Theo quan điểm thể loại, Nguyễn Đổng Chi đã hình dung nền văn học Việt Nam cổ được liên kết lại thành một khối thống nhất, chặt chẽ, không phải là do các khuynh hướng tư tưởng chính trị, triết học, tôn giáo hay pháp quyền, không phải là do các tác gia văn học lớn của các thời kỳ, mà là do các thể loại văn học quy định. Nghiên cứu lịch sử văn học chính là nghiên cứu lịch sử của sự hình thành, vận động, tương tác, phát triển của các thể loại văn học. Trong sách này, chúng ta thấy quan điểm thể loại của tác giả không loại bỏ vai trò của ngôn ngữ văn học, của khuynh hướng văn học, của tác gia văn học, nó cũng không tách rời các vương triều phong kiến, các thời đại lịch sử… Vì vậy mà nghiên cứu lịch sử văn học theo thể loại hoàn toàn không phải là vấn đề thuần túy hình thức. Đây cũng chính là những vấn đề của nội dung, được quan tâm có tính song trùng với chính những vấn đề hình thức thể loại.
2. Vấn đề tính toàn vẹn của lịch sử văn học Việt Nam
Diện mạo và đặc điểm của lịch sử văn học phải được biểu hiện ra ở các biên giới không gian và thời gian của văn học, ở các loại ngôn ngữ văn học và thể loại văn học, ở các khuynh hướng tư tưởng và nghệ thuật khác nhau của văn học, và ở nhiều lĩnh vực khác nữa. Chỉ khi nào chúng ta hình dung đầy đủ về diện mạo và đặc điểm của nền văn học Việt Nam, chúng ta mới có thể có được một bộ lịch sử văn học thống nhất và toàn vẹn, hay ngược lại, phải có quan điểm toàn vẹn về nền văn học, thì chúng ta mới xác định được đầy đủ diện mạo và đặc điểm của nó. Nhưng cho đến nay, vấn đề này vẫn chưa được giải quyết một cách thỏa đáng. Rất nhiều vấn đề hệ trọng của lịch sử văn học Việt Nam như việc xác định thời điểm khởi đầu của lịch sử văn học viết, việc nhìn nhận văn học thời kỳ Bắc thuộc có phải là văn học của Việt Nam hay không, việc đánh giá các khuynh hướng văn học khác nhau trong nền văn học, việc đánh giá văn học “vùng tạm chiếm” trước đây, hay “văn học hải ngoại” hiện nay… trong lịch sử văn học, hiện vẫn chưa được thống nhất. Việc chưa xác định đầy đủ diện mạo và đặc điểm của lịch sử văn học dân tộc đã dẫn đến hệ quả tất yếu là, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có được một bộ lịch sử văn học thống nhất và toàn vẹn như nó vốn có. Tuy nhiên, những vấn đề khoa học hết sức quan trọng này đã được đặt ra lần đầu tiên trong Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi, khi tác phẩm này đề cập đến nhiều nội dung liên quan đến tính toàn vẹn của lịch sử văn học Việt Nam như việc xác định tác phẩm mở đầu của lịch sử văn học, việc nhìn nhận, đánh giá văn học Việt Nam trước thế kỷ X, hay quan niệm về con người Việt Nam trước thế kỷ X, cùng nhiều vấn đề khác nữa…
Vấn đề mốc khởi thủy của lịch sử văn học viết Việt Nam
Việc xác định điểm mốc khởi thủy của lịch sử văn học viết Việt Nam cho đến nay có thể vẫn chưa được thống nhất trong học giới. Sau khi nêu lên nhiều tiêu chí, trong đó lấy tiêu chí về văn học của một nước Việt Nam độc lập làm yêu cầu số một, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng lịch sử văn học viết của Việt Nam bắt đầu được tính từ thế kỷ X. Các tiêu chí mà các nhà nghiên cứu đưa ra là: Đất nước độc lập, dân tộc tự do, cương giới xác định, văn hóa có bản sắc riêng, đội ngũ trí thức trưởng thành, nhu cầu sáng tạo và tiếp nhận của người Việt xuất hiện, ngôn ngữ và thể loại văn học đã được tiếp thu và sáng tạo có hệ thống([17])… Điều này rõ ràng là phù hợp với thời điểm thế kỷ X. Và do đó thế kỷ X được xem là điểm khởi đầu của lịch sử văn học viết của dân tộc. Trên cơ sở đó, các nhà nghiên cứu đặt ra nhiệm vụ cho ngành văn học sử là phải xác định cho được tác giả và tác phẩm mở đầu của nền văn học viết dân tộc. Thế nhưng về vấn đề này, lâu nay vẫn có nhiều ý kiến khác nhau.
Có ý kiến cho rằng Ngô Quyền và lời tuyên bố của ông được ghi lại trong Đại Việt sử ký toàn thư([18]) là tác giả và tác phẩm mở đầu cho nền văn học viết. Đây là ý kiến dựa trên quan điểm xem văn học thời cổ xưa có thể bao gồm cả những “ngữ lục”, những bài “văn nói” được ghi chép lại. Vì vậy, trong một số công trình khảo cứu, sưu tập văn học, mà tiêu biểu là cuốn Thơ văn Lý - Trần([19]), các tác giả đã tuyển chọn nhiều bài “văn nói” có giá trị văn học, xem đó là những tác phẩm văn học, trong đó có “bài văn nói” của Ngô Quyền kể trên. Bài văn nói của Ngô Quyền xuất hiện vào năm 938 về việc chuẩn bị kế sách đánh quân xâm lược nhà Nam Hán do Hoằng Thao cầm đầu, các tác giả sách Thơ văn Lý - Trần đặt tiêu đề là “Dự đại phá Hoằng Thao chi kế” (Bày kế đánh tan quân Hoằng Thao). Bài văn nói này được các nhà soạn sách giáo khoa Tác phẩm văn học 10([20]), cuốn sách giáo khoa Phổ thông trung học dùng trong các trường phổ thông ở miền Nam trong thời kỳ “cải cách giáo dục” sau năm 1990, lấy làm tác phẩm mở đầu cho lịch sử văn học viết Việt Nam, với tên gọi “Tuyên bố của Ngô Quyền”. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng đoạn “ngữ lục” của Ngô Quyền không thể là một tác phẩm văn học viết vì nó “chưa có được tiêu chí tối thiểu của một tác phẩm văn học viết”, vì không phải là “thủ bút” của tác giả, nên nó không thể là tác phẩm mở đầu của nền văn học viết Việt Nam([21]). Tuy nhiên, việc xem đoạn “ngữ lục” của Ngô Quyền không phải là tác phẩm văn học viết chỉ vì nó không phải là “thủ bút” của Ngô Quyền có lẽ vẫn chưa thật đầy đủ, vì trên thực tế, có nhiều tác phẩm không hề có “thủ bút” của tác giả nhưng vẫn thuộc về “văn học viết”, như Luận ngữ, Mạnh Tử, và rất nhiều tác phẩm ngữ lục Nho giáo và Phật giáo, thậm chí ngay cả nhiều “trước tác” của lãnh đạo trong thời hiện đại, chẳng hạn.
Có ý kiến cho rằng bài thơ Nam quốc sơn hà là tác phẩm mở đầu nền văn học viết Việt Nam([22]). Trong nhiều sách vở trước đây, nhất là các sách giáo khoa, tác phẩm được giới thiệu đầu tiên của lịch sử văn học viết thường là bài Nam quốc sơn hà. Nam quốc sơn hà được xem như là tác phẩm mở đầu của văn học viết Việt Nam, thậm chí, nó được xem như là một cái mốc lớn của lịch sử văn học dân tộc, và là “bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc”([23]). Nó gắn liền với tên tuổi của Lý Thường Kiệt, nhà chính trị, quân sự, ngoại giao kiệt xuất của thời Lý. Lý Thường Kiệt được xem như là tác giả của bài thơ, hay là người đã hoàn chỉnh bài “thơ thần” này, và sử dụng nó vào việc phục vụ cuộc chiến đấu chống quân Tống xâm lược, trên sông Như Nguyệt năm 1076. Tuy nhiên, giới nghiên cứu văn học từ những thập kỷ 80-90 của thế kỷ trước đã chứng minh rằng, Nam quốc sơn hà là một tác phẩm khuyết danh, và Lý Thường Kiệt không phải là “tác giả” duy nhất của bài thơ này([24]). Vì thế, Nam quốc sơn hà khó có thể là tác phẩm mở đầu nền văn học viết Việt Nam.
Lại có ý kiến cho rằng Thiên đô chiếu của Lý Công Uẩn là tác phẩm mở đầu lịch sử văn học viết Việt Nam([25]). Trong một số tuyển tập văn học, sách nghiên cứu, giáo trình, giáo khoa, tác phẩm Thiên đô chiếu thường được giới thiệu đầu tiên. Những người chủ trương Thiên đô chiếu là tác phẩm mở đầu nền văn học viết đã căn cứ vào vị trí của Lý Công Uẩn, người mở ra một triều đại cực thịnh, thời đại huy hoàng đầu tiên cho dân tộc, mà xác định vị trí người mở đầu nền văn học thời kỳ độc lập, tự chủ, chứ không phải là người đầu tiên làm văn học: “Nếu như Lý Thái Tổ chính thức mở ra trang đầu lịch sử văn học viết của nước Đại Việt bằng bài Chiếu dời đô nổi tiếng xuất hiện vào năm 1010 thì cũng không nên quên rằng trước tác phẩm này, đã có những bài thơ của các Thiền sư trong đó phải kể đến bài thơ mà Thiền sư Ngô Chân Lưu làm để tiễn sứ giả nhà Tống là Lý Giác (năm 981)”([26]). Tuy nhiên, đây cũng không phải là tác phẩm khởi đầu của lịch sử văn học viết Việt Nam, chỉ đơn giản vì trước đó còn có những tác phẩm khác.
Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tác phẩm khởi đầu của lịch sử văn học viết Việt Nam là bài thơ được người hiện nay đặt là Quốc tộ của sư Đỗ Pháp Thuận (915 - 990) được viết vào khoảng năm 981-982 để trả lời vua Lê Đại Hành khi ông vua này hỏi về sự dài ngắn của ngôi vị đế vương, của vận nước([27]). Bài thơ Quốc tộ lần đầu tiên được chép trong một ngữ lục Thiền tông về sư Pháp Thuận, trong sách Thiền uyển tập anh ngữ lục – một cuốn sách của nhà chùa, được viết trong một khoảng thời gian dài, và được hoàn thành vào đầu thời Trần([28]). Bài thơ không có tiêu đề, nên cũng có thể gọi là thơ “vô đề”. Thực chất nó chỉ là một “Thiền ngữ” trình bày trong một cuộc vấn đáp quen thuộc của các nhà sư thời kỳ này, được người đời sau ghi chép lại. Nó là một lời đối thoại bằng thơ của sư Pháp Thuận trả lời vua Lê Đại Hành hỏi về sự dài ngắn, bền vững của “ngôi nước”, của ngôi vua, của “đế vị”, cũng tức là của “vận nước”. Nó là một bộ phận, một chi tiết trong ngữ lục Thiền tông ghi chép về cuộc đời, sự nghiệp và công đức của nhà sư, nhằm mục đích đề cao tài năng và danh vọng của sư Pháp Thuận. Nhưng cũng như nhiều bài thơ khác trong Thiền uyển tập anh ngữ lục, ngoài vai trò của một lời đối đáp trong cuộc đối thoại, khi tách ra, nó có thể trở thành một tác phẩm văn học tương đối độc lập. Tuy có thể không phải là “thủ bút” của Pháp Thuận, nhưng cũng như các bài thơ Thiền khác trong tập sách này, bài thơ của Pháp Thuận có giá trị là một tác phẩm độc lập và là sở hữu của một tác giả cụ thể.
Thế nhưng vấn đề đặt ra ở đây là, phải chăng trước thế kỷ X Việt Nam không có văn học viết thực sự? Sự lúng túng của giới nghiên cứu văn học sử hiện nay xem ra lại không phải là điều lúng túng của nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi cách đây hơn 70 năm, khi ông chủ trương rằng “một dân tộc nào hễ có văn hóa thì phải có văn học”([29]), hay “chữ Tàu hay tiếng ta, hay hay dở, đều trưng bày cho độc giả”([30]). Và thế là lời giải của Nguyễn Đổng Chi tuy chỉ là một “giả thiết làm việc” cũng khiến cho khó ai có thể bác bỏ được. Ông viết về điểm khởi đầu của văn học viết Việt Nam bằng cách kể ra những tác phẩm sau: “Như tờ chiếu Triệu Vũ Đế bỏ đế hiệu, ban hành năm 179 (tr. J)”([31])… “Bài hịch của Lữ Gia bá cáo với người trong nước, kể tội Cù Hậu sắp dâng nước cho nhà Hán (113 tr. J)”([32])… hay “mấy bài sớ của Lý Tiến”… Và khẳng định “đó là văn chương của người Nam buổi Hán học khởi thủy”([33])…
Và ông, với những suy nghĩ không thể xem là thiếu cẩn trọng, khi đưa ra ý kiến về người mở đầu nền văn học viết Việt Nam, làm thành một “cái mốc của văn học cổ”, rằng, “người ấy là Sĩ Nhiếp (136 (?) - 226), một người Tàu trải lâu đời nhập tịch ở Việt Nam”([34]). Và còn chú thích rõ: “Trong bài tựa quyển Thánh mô hiền phạm lục của Lê Quý Đôn do Đốc học Lưỡng Quảng là Chu Bội Liên đề, có bảo Sĩ Nhiếp là nhân vật An Nam”([35]).
Vấn đề văn học của người Việt Nam trước thế kỷ X
Và thế là Việt Nam cổ văn học sử trở thành tác phẩm đầu tiên đối mặt với vấn đề vô cùng hóc búa đối với cả học giới ngày nay, đó là vấn đề văn học của người Việt Nam trước thế kỷ X. Rõ ràng, việc xác định thời điểm khởi đầu của lịch sử văn học viết Việt Nam từ thế kỷ X của học giới lâu nay là chưa thật sự thuyết phục. Bởi lẽ, chúng ta đã không đề cập đến những tác phẩm văn học của người Việt Nam trước thế kỷ X chỉ vì khi đó đất nước chưa được độc lập, dân tộc chưa được tự do, cương giới chưa được xác định rõ, văn hóa chưa có bản sắc riêng (?), đội ngũ trí thức chưa trưởng thành, nhu cầu sáng tạo và tiếp nhận của người Việt chưa thật sự xuất hiện (?)… Theo chúng tôi, nên coi đây chỉ là việc xác định điểm khởi đầu của lịch sử văn học Việt Nam thời kỳ tự chủ chứ chưa hẳn là điểm khởi đầu của toàn bộ lịch sử văn học Việt Nam.
Phải chăng khi đất nước chưa được tự chủ thì Việt Nam không có văn học? Nguyễn Đổng Chi cho rằng không phải như vậy. Việt Nam cổ văn học sử khởi đầu, và sau này một số công trình khác tiếp nối, đã cho thấy rõ, trên thực tế, quá trình tiếp xúc với văn hóa và ngôn ngữ Trung Hoa, với Hán học, do cưỡng bức hay tự nguyện, dường như chính thức được bắt đầu từ thế kỷ II trước công nguyên. Cho đến cuối thế kỷ II sau công nguyên, tức là sau khoảng 400 năm, Hán học ở nước ta đã khá phát triển, thậm chí có người cho rằng nó đã “trở nên rực rỡ”([36]), bắt đầu có người Việt Nam thi đỗ và làm quan cho nhà Hán như Lý Tiến, Trương Trọng, Lý Cầm..., và bắt đầu có người Việt Nam sáng tác văn học bằng chữ Hán. Đến thế kỷ III, Khương Tăng Hội người gốc nước Khương Cư nhưng sinh ra ở Giao Chỉ, theo Nguyễn Lang, “ông giỏi cả Phạn ngữ lẫn Hán tự. Trong các tác phẩm của ông ta thấy có tập Nê hoàn phạm bối là một tập thi ca về đề tài Niết Bàn tuyển dịch từ những bài thi tụng Phạn ngữ, Lục độ tập kinh của ông văn từ điển nhã, chứng tỏ Hán văn của ông không thua gì người Trung Hoa thời ấy. Cố nhiên là sinh trưởng tại Giao Chỉ ông phải nói rất thạo tiếng nước ta... Ông đã ở trên đất Trung Hoa 33 năm. Nhiều người cho rằng ông đã trước tác và dịch thuật tại đây, nhưng kỳ thực, một phần quan trọng của công việc này đã được ông làm tại Giao Chỉ”([37]). Thế kỷ V, các Thiền sư nổi tiếng người gốc Giao Chỉ cũng có trước tác kinh điển Phật giáo như Huệ Thắng, Đạo Thiền..., hay có làm thơ, như “chùm thơ trao đổi giữa hai cao tăng Thích Đạo Cao, Thích Pháp Minh ở Giao Châu và sứ quân Lý Diệu của Bắc triều”([38]). Đặc biệt đáng chú ý là bài phú chữ Hán Bạch vân chiếu xuân hải của Khương Công Phụ làm quan dưới thời nhà Đường, thế kỷ VIII, từng được giới thiệu trong một số nghiên cứu về văn học sử của Việt Nam([39]).
Tất cả các tác phẩm văn học của người Việt Nam trước thế kỷ X, cho đến nay, không được các bộ văn học sử chính thống công nhận là văn học Việt Nam, chỉ vì chúng được sáng tác khi nước ta bị ngoại bang đô hộ. Trong công trình của mình, học giả Nguyễn Đổng Chi, trái lại, khẳng định rằng tất cả các tác phẩm đó đều là văn học Việt Nam. Quan niệm đó, theo chúng tôi, là đúng đắn. Nếu như chúng ta đặt văn học của người Việt Nam trước thế kỷ X trong bối cảnh chung của văn hóa Việt Nam trước thế kỷ X, mà chúng tôi gọi là cái phổ (sphère) văn hóa chung, thì chúng ta sẽ phải đối mặt với hàng loạt vấn đề đang đòi hỏi trả lời một cách nghiêm túc: Tại sao văn học viết của người Việt Nam trước thế kỷ X (với tư cách là một thành tố văn hóa) lại không được công nhận là văn học của Việt Nam, trong khi các lĩnh vực văn hóa khác khác như tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lễ hội, trang phục, kiến trúc, điêu khắc, mỹ thuật…, thậm chí ngay cả ngôn ngữ, “yếu tố thứ nhất của văn học”, hay “văn học dân gian” – người “anh em” của văn học viết, lại được công nhận là thuộc về văn hóa của Việt Nam, là những bộ phận không chia cắt về lịch sử trong quá trình phát triển của văn hóa Việt Nam từ cổ xưa đến bây giờ? Quả tình, “một dân tộc nào hễ có văn hóa thì phải có văn học”([40]), “chữ Tàu hay tiếng ta, hay hay dở, đều trưng bày cho độc giả”([41]), đó là quan điểm khoa học khó mà bác bỏ được của Việt Nam cổ văn học sử.
Vấn đề người Việt Nam trước thế kỷ X
Việt Nam cổ văn học sử cũng đặt vấn đề người Việt Nam, chủ thể của văn học trước thế kỷ X. Nguyễn Đổng Chi nhất quán cho rằng những người sinh sống trên đất Việt Nam, nhập tịch Việt Nam, thì là người Việt Nam. Đó có thể là người gốc Việt, nhưng đó cũng có thể là người có gốc Trung Hoa, Ấn Độ hay Chiêm Thành…, nhưng đã “trải lâu đời nhập tịch ở Việt Nam”, thì sớm muộn đều phải “Việt Nam hóa” theo định mệnh lịch sử. Như trường hợp Sĩ Nhiếp chẳng hạn (xem đoạn trích đã dẫn ở trên), ngay đến một người vào hàng thông thái là Đốc học Lưỡng Quảng Chu Bội Liên, trong tâm lý dễ gì đã quên được gốc gác tổ tiên mấy đời của ông ta, thế mà vẫn đành phải thừa nhận “Sĩ Nhiếp là nhân vật An Nam”([42]). Nghĩa là trong cộng đồng dân tộc Việt từ xưa, ngoài những người Việt “chính gốc” còn có một bộ phận đông đảo người Việt Nam thuộc nhiều dân tộc khác được hình thành trên một quá trình lâu dài tới cả nghìn năm hỗn dung nhân chủng và văn hóa với phương Bắc hay phương Nam. Tuy nhiên, hiểu thế nào là người Việt “chính gốc” của thời kỳ hỗn dung nhân chủng và văn hóa này? Thì đây vẫn một điều không dễ xác định ngay cả đối với người Việt của thời kỳ tự chủ. Theo truyền thuyết, theo tình cảm, người Việt và nhiều nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam đã coi Thục Phán, người gốc vùng Ba Thục ở Tây Nam Trung Quốc, năm 257 tr. CN, đã “kiêm tính nước Văn Lang [của Hùng Vương], đổi quốc hiệu làm Âu Lạc”([43]), là người Việt Nam, thậm chí là vua của Việt Nam. Nước Âu Lạc và kinh đô Cổ Loa của Thục An Dương Vương đã trở thành huyền thoại trong lịch sử Việt Nam. Nhưng đối với Triệu Đà, cũng là một người gốc Trung Quốc, đã kiêm tính Âu Lạc của Thục Phán, lập nên nhà nước Nam Việt rộng lớn phía Nam sông Dương Tử, phía Nam núi Ngũ Lĩnh([44]), bao gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc bây giờ, mà theo truyền thuyết và tình cảm, nhiều người hiện nay cho là “quân xâm lược”, nhưng theo quan điểm của nhiều người Việt khác, trong đó đặc biệt là nhiều sử gia lừng danh, như Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, thậm chí cả Trần Quốc Tuấn([45])… lại coi Triệu Đà là ông vua giỏi mở mang cơ nghiệp của nước Nam…
Cho đến nay chúng ta chưa tìm thấy tác phẩm văn học viết của người Việt Nam thời Văn Lang, Âu Lạc, mà chỉ thấy tác phẩm của thời Nam Việt. Nếu như Triệu Đà (và con cái cùng các cận thần, quan lại của ông ta) sau khi “giết trưởng lại nhà Tần, giữ lấy đất Lĩnh Nam, xưng đế, đối địch với nhà Hán, hưởng nước giữ ngôi 100 năm mới mất, cũng là bậc vua anh hùng”([46]) của nước Việt, như đánh giá của sử gia Ngô Sĩ Liên, hay “tự làm đế trong nước, đối ngang hàng với nhà Hán…, là người mở đầu cơ nghiệp đế vương cho nước Việt ta”([47]), như đánh giá của sử gia Lê Văn Hưu, rồi lấy vợ Việt, sống theo phong tục tập quán Việt (búi tó tóc, ngồi xổm…), trải qua năm đời ở đất Việt, sau bị nhà Hán tiêu diệt và “nước Việt ta đã thuộc về nhà Hán”([48]) từ đấy, là người Việt Nam, thì phải chăng lịch sử văn học viết của Việt Nam được bắt đầu từ đây? Hay nó chỉ có thể xuất hiện muộn hơn với Sĩ Nhiếp, hay với những sáng tác của người Việt Nam “chính gốc” trong thời Bắc thuộc? Hay nó chỉ bắt đầu từ thời kỳ nước Việt Nam được độc lập, tự chủ, như cách hiểu phổ biến hiện nay? Theo chúng tôi, những vấn đề này cần tiếp tục được làm rõ, ngõ hầu mới có thể xác định được chính xác diện mạo cũng như thời điểm khởi đầu của lịch sử văn học dân tộc, mà tất cả đều đã được đặt ra một cách nghiêm túc từ Việt Nam cổ văn học sử.
Việt Nam cổ văn học sử là tác phẩm đầu tiên chính thức đặt vấn đề nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam trong sự toàn vẹn của nó, đặt toàn bộ lịch sử văn học dân tộc trong “chỉnh thể Việt văn hóa” của nó. Lịch sử văn học, tự bản thân nó là một “tồn tại khách quan”. Về bản chất, nó không chấp nhận việc loại bỏ những tác gia, những tác phẩm, những bộ phận, những khu vực, những giai đoạn, hay những khuynh hướng văn học nào. Công trình này đặt ra yêu cầu phải khôi phục lại diện mạo đầy đủ và toàn diện như nó vốn có của nền văn học dân tộc.
3. Về vấn đề văn học hải ngoại Việt Nam
Khi nghiên cứu tính toàn vẹn của lịch sử văn học Việt Nam, chúng ta bắt buộc phải giải quyết vấn đề văn học Việt Nam hải ngoại. Khái niệm “văn học Việt Nam ở hải ngoại”, hay nói gọn lại là “văn học hải ngoại”, được nhắc đến trong nghiên cứu của một số học giả người Việt trong và ngoài nước những năm gần đây đối với các sáng tác văn học bằng tiếng Việt của người gốc Việt tại Hoa Kỳ, Úc, Pháp, Canada... Đời sống “văn học hải ngoại” nhìn chung khá sôi nổi với sự xuất hiện nhiều nhà văn, nhà thơ, nhiều nhà xuất bản, báo và tạp chí chuyên về văn học tiếng Việt([49]). Chữ “hải ngoại” cũng được trao đổi với nhiều ý kiến khác nhau. Theo chúng tôi, nó cần được hiểu theo cách của Phan Bội Châu khi ông viết Hải ngoại huyết thư hồi đầu thế kỷ XX, dùng để chỉ chung “nước ngoài”. Vì vậy khái niệm “văn học hải ngoại” cần được hiểu là dùng để chỉ chung các sáng tác văn học của người Việt ở nước ngoài. Có thể còn những quan điểm khác nhau, nhưng chúng ta cũng dễ thống nhất về tên gọi “văn học hải ngoại”. Vấn đề hiện gây nhiều tranh luận là việc nhận diện “văn học hải ngoại” và việc xác định vai trò của “văn học hải ngoại” trong lịch sử văn học Việt Nam.
Hiện nay nhiều người băn khoăn về thời điểm ra đời cũng như về phạm vi sinh tồn của “văn học hải ngoại”. Cụ thể, có người cho rằng “văn học hải ngoại” chỉ có từ sau năm 1975, khi một bộ phận khá đông đảo người Việt do những biến cố lịch sử đã phải di tản thời hậu chiến, lập thành những cộng đồng người Việt ở hải ngoại và làm văn học bằng tiếng Việt. Có người lại xem “văn học hải ngoại” chỉ là “văn học miền Nam nối dài”, tức văn học ở miền Nam trước năm 1975 được tiếp tục ở nước ngoài([50])... Việc xác định thời điểm xuất hiện của “văn học hải ngoại” chỉ từ sau 1975, hay xem phạm vi của “văn học hải ngoại” chỉ là văn học của các cộng đồng người Việt, chủ yếu là người miền Nam, di tản sau năm 1975 ở nước ngoài được “nối dài”, tự bản thân nó làm cho vấn đề trở nên hết sức phong bế cả về không gian và thời gian, và dễ bị lẫn lộn với những vấn đề nhạy cảm của tư tưởng hay chính trị khác. Và nhất là, nó không khoa học. Theo chúng tôi, “văn học hải ngoại” đâu chỉ là văn học của người Việt ở Mỹ hay một số nước trong khối “tư bản” khác như Pháp, Úc, Canada... mà còn là văn học của tất cả người Việt trên thế giới, trong đó có cả ở các nước Đông Âu “xã hội chủ nghĩa” trước đây như Liên Xô, CHDC Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan, Hunggari, Bungari... và các nước “tư bản” này hiện nay. Vì thế không thể gọi “văn học hải ngoại” chỉ là “văn học miền Nam nối dài”, hay chỉ là văn học của người Việt sau năm 1975 ở nước ngoài.
Theo chúng tôi, cần xem “văn học hải ngoại” như là một tồn tại khách quan, tự thân, một hiện tượng có tính rộng lớn và phổ quát xuất hiện tất yếu trong suốt tiến trình lịch sử Việt Nam từ xưa tới nay. Có như vậy, chúng ta mới dần dần xóa bỏ được những mặc cảm chính trị và thời cuộc, những cái nhìn thiên kiến, những đánh giá chủ quan, lệch lạc về văn học trong nước và ngoài nước của người Việt ở cả trong nước và ở ngoài nước, mới có thể dần dần loại bỏ được sự chi phối có tính áp đặt của các “yếu tố ngoài văn học” đối với văn học, để đi đến thống nhất về quan điểm tiếp cận, đánh giá, mới có thể lý giải được những quy luật vận động nội tại của cả văn học trong nước và “văn học hải ngoại” cũng như những đóng góp tất yếu và khách quan của nó vào sự phát triển của lịch sử văn học dân tộc.
Thật bất ngờ, người đầu tiên đặt vấn đề nghiên cứu văn học hải ngoại trong văn học sử Việt Nam lại cũng chính là học giả Nguyễn Đổng Chi, trong tác phẩm Việt Nam cổ văn học sử. Ông chẳng những là người đầu tiên đặt vấn đề, mà còn là người đưa ra những quan điểm hết sức cẩn trọng trong đánh giá, với một óc khoa học nghiêm túc. Tuy số tác giả và tác phẩm văn học hải ngoại không nhiều, nhưng ông dành hẳn một mục “Văn chương phái ở ngoại quốc” để giới thiệu, chứng tỏ trong quan niệm khoa học của ông, vấn đề này rất quan trọng. Không khảo cứu kỹ các tác phẩm văn học của “phái ở ngoại quốc”, nhưng ông không ngần ngại giới thiệu thơ văn của nhiều tác giả “nhạy cảm” như Trần Ích Tắc, Trần Tá Viên, Lê Tắc… , nhất là bộ An Nam chí lược của Lê Tắc. Ông viết, “bộ An Nam chí lược gồm có 20 quyển mà tác giả là Lê Tắc, một hàng thần Việt Nam làm quan nhà Nguyên. Sách này chép theo thể tài bách khoa, lưu hành ở bên Tàu, người mình buổi ấy ít biết đến. Quyển này và quyển Việt chí đều được liệt vào Tứ Khố toàn thư bên Tàu”([51]). Ông tỏ rõ thái độ khách quan khoa học khi giới thiệu cả hai quan điểm đánh giá đối với An Nam chí lược, như ý kiến của Huỳnh Thúc Kháng cho rằng: “Nói tóm lại, sách An Nam chí lược này là của một tên tiểu nhân nho làm ra để đưa quân Hồ - Nguyên… Không ngờ bản sách “nhục nhã” ấy lại truyền sang Nhật Bản mà họ đem in ra như thế”([52]); nhưng “Lê Dư thì bảo: “Tiên sinh [Lê Tắc] ở vào buổi dưới quyền thống trị của người Nguyên, cho nên chép việc đều dùng lời phục thuận… Người nước ta mới đọc sách ấy không khỏi chê tiên sinh là người thiếu tấm lòng yêu nước thương nòi. Nhưng không phải thế, nỗi khổ tâm của tiên sinh chính ở đó…”([53]).
Việt Nam cổ văn học sử lần đầu tiên đề cập tới một vấn đề mà bây giờ vẫn được xem là “nhạy cảm”, đó là văn học hải ngoại. Do những hoàn cảnh lịch sử gần nghìn năm qua, một bộ phận người gốc Việt đã và đang sinh sống ở nước ngoài nhưng vẫn nặng lòng với tiếng nói, với văn học và văn hóa nước nhà. Nhiều sáng tác văn học của họ có giá trị cả về nội dung tư tưởng cũng như hình thức nghệ thuật, có đóng góp nhất định cho sự phát triển của lịch sử văn học chung của dân tộc. Việt Nam cổ văn học sử cho rằng đây là một bộ phận không thể thiếu của lịch sử văn học Việt Nam. Đứng trên quan điểm văn học sử, “văn học hải ngoại” là một bộ phận không thể chia cắt với “văn học quốc nội”, làm nên tính thống nhất và toàn vẹn của lịch sử văn học dân tộc. Đó là một hiện thực lịch sử không thể bỏ qua. Trong lịch sử Việt Nam, sau khi đất nước giành được quyền tự chủ từ tay người phương Bắc, do những hoàn cảnh khác nhau, có một bộ phận người Việt sinh sống và lập nghiệp ở Trung Quốc. Họ sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị về văn - sử - triết... Tiêu biểu trong số đó phải kể Lê Tắc với An Nam chí lược được soạn vào cuối thế kỷ XIII và hoàn thành vào đầu thế kỷ XIV, thời Trần([54]), Hồ Nguyên Trừng (còn được gọi là Lê Trừng) với Nam Ông mộng lục được soạn vào đầu thế kỷ XV thời Hậu Trần([55])... và một số nhà văn, nhà thơ như nêu trên, có thể được xem là những tác phẩm “văn học hải ngoại” thuộc vào loại đầu tiên của người Việt.
Theo quan điểm này, dường như chúng ta cần quan tâm đầy đủ hơn tới một dòng chảy văn học hải ngoại trong lịch sử từ xưa tới nay. Bước vào thời kỳ Cận hiện đại, văn học hải ngoại ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Tiêu biểu trong số này có thể kể đến những tác phẩm bằng chữ Việt, chữ Hán hoặc chữ Pháp được viết ở Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản... như Hải ngoại huyết thư (1906), Lưu Cầu huyết lệ tân thư (1907), Ngục trung thư (1914)... của Phan Bội Châu; Xăngtê thi tập (1915), Giai nhân kỳ ngộ diễn ca (1915), Thất điều thư (1922)... của Phan Châu Trinh; Huyền truyện của những miền thanh lãng (Légendes des terres séreines - 1943), Thiếu phụ Nam Xương (La jeune femme de Nam Xương - 1944)... của Phạm Duy Khiêm; Truyện và ký (1920-1923) của Nguyễn Ái Quốc, Ngục trung nhật ký (1942-1943) của Hồ Chí Minh; Mất nơi ăn ở (Perdre la deumeure - 1961), Người sẽ ngự trị (Celui qui régnera)... của Phạm Văn Ký,... Ngoài ra còn nhiều tác phẩm thơ ca, báo chí, chính luận, truyện ký của nhiều người khác nữa trong khoảng thời gian này. Còn trong thời kỳ đương đại, nhất là từ sau năm 1975, thì văn học hải ngoại thực sự trở thành một bộ phận không thể thiếu của bức tranh toàn vẹn về văn học Việt Nam.
Nhưng chúng ta cũng cần lưu ý rằng, không phải bất kỳ tác phẩm văn học nào do người gốc Việt sáng tác ở nước ngoài cũng đều được xem là “văn học hải ngoại”. Tác phẩm “văn học hải ngoại” phải là tác phẩm văn học bằng tiếng Việt, làm theo các thể cách văn học của người Việt, chủ yếu đề cập tới đời sống của người Việt, phản ánh tâm tư, tình cảm, thái độ thẩm mỹ của người Việt, và có mối quan hệ nào đó với trong nước. Nếu viết bằng tiếng nước ngoài thì nó cũng phải là sự bổ sung cần thiết những sắc màu riêng vào bức tranh văn học của Việt Nam phong phú, đa dạng và phức tạp nhưng trên tinh thần thống nhất và toàn vẹn của văn hóa và văn học dân tộc. Vì thế, bên cạnh phần thơ văn tiếng Việt, vẫn có nhiều sáng tác văn học của người gốc Việt bằng chữ viết bản ngữ, theo hình thức của văn học bản địa, đề cập tới những vấn đề của đất nước và con người sở tại, lại không được công nhận là “văn học hải ngoại”. Đó chỉ là một bộ phận của văn học bản địa chứ không phải là “văn học hải ngoại” của người Việt với đúng nghĩa. Ví dụ như trong lịch sử văn học Trung Quốc hiện có hẳn một công trình Kinh tộc văn học sử nằm trong bộ Trung Quốc thiểu số dân tộc văn học sử tùng thư. Công trình này giới thiệu những thành tựu văn học của người Kinh (Việt) sống ở huyện tự trị Phòng Thành tỉnh Quảng Tây và một số địa phương khác, di cư sang Trung Quốc từ thế kỷ XV. Hiện nay họ đã trở thành một dân tộc thiểu số của Trung Quốc, nói và viết bằng tiếng Trung Quốc, thấm nhuần văn hóa thuần chủng Trung Quốc, đề cập tới đời sống con người gốc Việt nhưng đã Hán hóa, bản địa hóa, thực chất đã trở thành những người Trung Quốc thiểu số, và ngay từ đầu họ đã không có liên hệ gì đối với văn học trong nước. Các sáng tác của họ được xem là “văn học thiểu số” của nước này, và đã được nằm trong bộ tùng thư văn học sử của nước này([56]). Điều đó cũng tương tự đối với các sáng tác của một số nhà văn gốc Việt ở một số nước khác nhau hiện nay, khi họ sáng tác với tư cách là nhà văn của nước đó, bằng ngôn ngữ và thể cách văn chương của nước đó, và chỉ đề cập tới những đề tài, chủ đề thuộc xã hội và con người nước đó.
Văn học hải ngoại không phải chỉ là một hiện tượng đặc biệt mang tính thuần văn học, mà còn là một hiện tượng đặc biệt của lịch sử Việt Nam, của văn hóa Việt Nam. Nó có số phận lịch sử của nó. Để nhận thức nó, khó có thể tách rời nó khỏi cả một bối cảnh rộng lớn của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Điều này dường như vượt khỏi tầm kiểm soát của những cách nhìn khô cứng, hạn hẹp, của những quan điểm thiếu khách quan, khoa học, và thiếu cả tính bao dung, nhân hậu vốn là thế mạnh của chính người Việt. Thiết nghĩ, những gợi mở của Việt Nam cổ văn học sử về văn học hải ngoại càng cho thấy Nguyễn Đổng Chi có một “óc khoa học” và một viễn kiến trong tầm nhìn sự vận động của lịch sử văn học dân tộc.
*
* *
Việt Nam cổ văn học sử là công trình chính thức mở đầu cho ngành nghiên cứu lịch sử văn học dân tộc bằng quan điểm tiếp cận, đánh giá khách quan, bằng phương pháp khoa học thuyết phục và hiện đại, bằng nguồn tài liệu được khảo chứng công phu, và bằng một cảm hứng nghiên cứu hết sức chân thành và trung thực. Công trình này đã đặt nền móng cho khoa nghiên cứu lịch sử văn học hiện đại. Những quan điểm, phương pháp và tư tưởng mang tính gợi mở của công trình này đang tiếp tục có tác động rất quan trọng đối với việc nghiên cứu văn học sử hiện nay. Gạt bỏ những hạn chế của chủ quan tác giả và của thời đại, đây là một trong những công trình khoa học về sử văn học đương thời có sức sống lâu bền nhất, có tác động lớn lao nhất trong học giới. Dù đã hơn 70 năm qua, nhưng nhiều vấn đề mà công trình này đặt ra vẫn còn nguyên giá trị, thậm chí vẫn có tính thời sự đối với chúng ta hôm nay.
Ngày Đông - an - cư, 2014
N.P.H.
(*) PGS TS, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nghân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
([1]) Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam cổ văn học sử, NXB Hàn Thuyên, H, 1942.
([2]) Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia, Nguyễn Đổng Chi - Người miệt mài tìm kiếm các giá trị văn hóa dân tộc, NXB Khoa học xã hội, H, 1997.
([3]) Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia, Nguyễn Đổng Chi - Người miệt mài tìm kiếm các giá trị văn hóa dân tộc, Sđd; tr. 129, 131, 134, 136, 139.
([4]) Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia, Nguyễn Đổng Chi - Người miệt mài tìm kiếm các giá trị văn hóa dân tộc, Sđd; tr. 143.
([5]) Trần Văn Giáp, “Tựa”, Việt Nam cổ văn học sử, Sđd.
([6]) Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam cổ văn học sử, Sđd; tr. 24.
([7]) Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam cổ văn học sử, Sđd; tr. 24.
([8]) Nguyễn Sĩ Đạo, Đại Việt văn học lịch sử, NXB Tân hóa, H, 1941.
([9]) Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, Trung học Việt văn giáo khoa thư, Nha học chính Đông Pháp, H, 1943.
([10]) Ngô Tất Tố, Việt Nam văn học - Văn học đời Lý, NXB Mai Lĩnh, H, 1942; Việt Nam văn học - Văn học đời Trần, NXB Mai Lĩnh, H, 1942.
([11]) Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam cổ văn học sử, Sđd; tr. 27.
([12]) Trần Văn Giáp, “Tựa”, Việt Nam cổ văn học sử, Sđd.
([13]) Công trình dân tộc học về người Ba-na (Bahnar), viết chung với người anh ruột, Bác sĩ Nguyễn Kinh Chi, sau những năm cùng đi khảo sát điền dã ở Kon Tum.
([14]) Nguyễn Huệ Chi, “Khảo luận văn bản”, Thơ văn Lý - Trần, Tập 1, NXB Khoa học xã hội, H, 1977.
([15]) Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam cổ văn học sử, Sđd; tr. 17.
([16]) M. Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du, H,1992.
([17]) Xem Bùi Văn Nguyên, Lịch sử văn học Việt Nam, T. 2, NXB Giáo dục, H, 1978; Đinh Gia Khánh - Bùi Duy Tân - Mai Cao Chương, Văn học Việt Nam - Thế kỷ X nửa đầu thế kỷ XVIII, NXB ĐHVTHCN, H,1978; Nhiều tác giả, Văn học 10, NXB Giáo dục, H, 1994; Nhiều tác giả, Phân tích - bình giảng tác phẩm văn học 10, NXB Giáo dục, H, 1999; Bùi Duy Tân, Khảo và luận một số tác gia, tác phẩm văn học Trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục, H. 1999; Nhiều tác giả, Ngữ văn 10 (Sách thí điểm), NXB Giáo dục, H, 2003…
([18]) Quốc sử quán triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư, T. 1, NXB Khoa học xã hội, H, 1972; tr. 146.
([19]) Viện Văn học, Thơ văn Lý - Trần, T. 1, Sđd.
([20]) Nhiều tác giả, Tác phẩm văn học 10, T. 1, NXB Giáo dục, TP HCM, 1990.
([21]) Xem Bùi Duy Tân, Nên chọn tác phẩm nào là sớm nhất của văn học Trung đại Việt Nam, Tạp chí Hán Nôm, số 2-1993.
([22]) Nhiều tác giả, Giảng văn, T. 1, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H, 1982.
([23]) Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, T. 1, NXB Khoa học xã hội, H, 1971; tr. 182.
([24]) Xem thêm Trần Nghĩa, Thử xác lập văn bản bài thơ “Nam quốc sơn hà”, Tạp chí Hán Nôm, số 1-1986; Hà Văn Tấn, Lịch sử, sự thật và sử học, báo Tổ quốc, số 401 - 1988; Bùi Duy Tân, Nên chọn tác phẩm nào là sớm nhất của văn học Trung đại Việt Nam, Bđd; Bàn thêm về văn bản và tác giả bài thơ “Nam quốc sơn hà”, Tạp chí văn học, số 10-1996...
([25]) Nhiều tác giả, Hợp tuyển văn học Việt Nam, T. 2, NXB Văn học, H, 1976; Đinh Gia Khánh - Bùi Duy Tân - Mai Cao Chương, Văn học Việt Nam - Thế kỷ X nửa đầu thế kỷ XVIII, Sđd.
([26]) Đinh Gia Khánh - Bùi Duy Tân - Mai Cao Chương, Văn học Việt Nam - Thế kỷ X nửa đầu thế kỷ XVIII, Sđd; tr. 76.
([27]) Bùi Duy Tân, Nên chọn tác phẩm nào là sớm nhất của văn học Trung đại Việt Nam, Bđd; Nhiều tác giả, Ngữ văn 10 (Sách thí điểm), Sđd; Nguyễn Phạm Hùng, Thiền sư Đỗ Pháp Thuận, người mở đầu lịch sử văn học Việt Nam thời tự chủ, Tạp chí Nghiên cứu Phật học, số 2-2006.
([28]) Xem Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, T. 1, NXB Văn học, H, 1994; Bùi Duy Tân, Khảo và luận một số tác gia, tác phẩm văn học Trung đại Việt Nam, Sđd; tr.12; Nhiều tác giả, Ngữ văn 10, Sách giáo viên, Bộ 1, NXB Giáo dục, H, 2003; tr. 188.
([29]) Trần Văn Giáp, “Tựa”, Việt Nam cổ văn học sử, Sđd.
([30]) Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam cổ văn học sử, Sđd; tr. 21.
([31]) Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam cổ văn học sử, Sđd; tr. 71.
([32]) Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam cổ văn học sử, Sđd; tr. 72.
([33]) Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam cổ văn học sử, Sđd; tr. 76.
([34]) Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam cổ văn học sử, Sđd; tr. 76. Ngay trong thời hiện đại, khó có thể tìm thấy căn cứ khoa học để bác bỏ “một người Tàu trải lâu đời nhập tịch ở Việt Nam” không phải là người Việt Nam.
([35]) Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam cổ văn học sử, Sđd; tr. 77.
([36]) Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, T. 1, Sđd; tr. 72.
([37]) Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, T. 1, Sđd; tr. 86.
([38]) Bùi Duy Tân, Khảo và luận một số tác gia, tác phẩm văn học Trung đại Việt Nam, Sđd; tr. 8.
([39]) Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam cổ văn học sử, Sđd; tr. 87-90.
([40]) Trần Văn Giáp, “Tựa”, Việt Nam cổ văn học sử, Sđd.
([41]) Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam cổ văn học sử, Sđd; tr. 21.
([42]) Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam cổ văn học sử, Sđd; tr. 77.
([43]) Quốc sử quán triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư, T. I, Sđd; tr. 64.
([44]) Vì vậy, từ đó vùng đất của nước Việt còn được gọi là đất Lĩnh Nam (vùng đất phía Nam núi Ngũ Lĩnh), như chính tên cuốn sách sách nổi tiếng Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp thế kỷ XIV viết về những điều thần quái ở nước Việt.
([45]) Trần Quốc Tuấn là người khẳng định Triệu Đà là người Việt: Trước khi mất, khi vua Trần Anh Tông hỏi nếu “giặc phương Bắc lại xâm lấn thì kế sách làm sao?”, Trần Quốc Tuấn nói: “Ngày xưa Triệu Võ Đế dựng nước, vua Hán cho quân đánh thì nhân dân làm kế thanh dã, rồi đem đại quân ra châu Khâm, châu Liêm đánh vào Trường Sa…” (Đại Việt sử ký toàn thư, T. II; Sđd; tr. 80). Quan điểm này đã bị Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780) phê phán trong Việt sử tiêu án (Xem bản in của NXB Thanh Niên, H. 2001, phần Ngoại thuộc: Nhà Triệu). Các truyền thuyết dân gian về Thục An Dương Vương, về Mỵ Châu, Trọng Thủy đều bênh vực An Dương Vương mà phê phán Triệu Đà. Các bộ lịch sử Việt Nam hiện nay cũng không công nhận nhà Triệu. Tuy nhiên, vấn đề này hiện vẫn còn những ý kiến trái ngược nhau, vì các cứ liệu lịch sử và huyền sử được sử dụng chưa thật đầy đủ và thuyết phục.
([46]) Quốc sử quán triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư, T. I, Sđd; tr. 71.
([47]) Quốc sử quán triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư, T. I, Sđd; tr. 78.
([48]) Quốc sử quán triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư, T. I, Sđd; tr. 89.
([49]) Xem các bài viết của Hoàng Ngọc Hiến, Đọc văn học hải ngoại; Nguyễn Huệ Chi, Vài cảm nhận văn học Việt Nam hải ngoại; Thuỵ Khuê, Thử tìm một lối tiếp cận văn học sử về hai mươi nhăm năm văn học hải ngoại 1975-2000; Mãn Châu, Văn học Việt Nam ở hải ngoại: Đang từ từ đi vào một khúc quanh; Lê Hồng Lâm, Văn học Việt Nam hải ngoại - “Văn học miền Nam nối dài”; Nguyễn Xuân Hoàng, Văn học Việt Nam trong và ngoài nước; Nguyễn Đỗ, Văn học Việt Nam hải ngoại vẫn hiện hữu và đang trong thời kỳ trăm hoa đua nở; Lê Hoài Nguyên, Một cái nhìn mười tám năm văn học Việt Nam ngoài nước; Nguyễn Vĩnh Nguyên, Văn học Việt Nam hải ngoại: “dòng riêng” có gặp “dòng chung”?... trên nhiều sách, báo, tạp chí trong và ngoài nước trong khoảng 3 thập kỷ lại đây, như Tạp chí văn học, Tạp chí Hợp lưu (Hoa Kỳ), Tạp chí Văn học (Hoa Kỳ), Tạp chí Văn nghệ (Hoa Kỳ), Tạp chí Thế kỷ 21 (Hoa Kỳ)...
([50]) Lê Hồng Lâm, Văn học Việt Nam hải ngoại - “Văn học miền Nam nối dài”.
([51]) Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam cổ văn học sử, Sđd; tr. 247.
([52]) Tiếng dân số 1193, trong bài Một điều rất nhục cho sử giới nước ta (Chú thích của Việt Nam cổ văn học sử; tr. 357).
([53]) Trích dịch Hán văn bài “Độc An Nam chí lược thư hậu” của Lê Dư trong Nam phong, số 95 (Chú thích của Việt Nam cổ văn học sử; tr. 356).
([54]) Lê Tắc (cũng phiên âm là Trắc), An Nam chí lược, Trần Kinh Hòa chủ biên, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt Nam, Viện Đại học Huế xuất bản, 1961; NXB Thuận Hoá - Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây chỉnh lý, bổ sung, tái bản, H, 2001. Về thời điểm biên soạn sách này có thể căn cứ vào việc năm 1292 Lê Tắc được triều Nguyên phong hàm Phụng sự lang, chức Đồng Tri châu An Tiêm, một chức có danh nhưng không phải đến nhiệm sở, nên ông có nhiều thời gian bắt tay vào soạn An Nam chí lược. Lại căn cứ vào thời gian ghi trong gần 20 bài Tựa, Bạt thì có thể thấy việc soạn sách này phải đến đầu thế kỷ XIV mới xong.
([55]) Xem Viện Văn học, Thơ văn Lý - Trần, T. 3, NXB Khoa học xã hội, H, 1978.
([56]) 蒍 維 光 , 過 偉 , 韋 堅 平 , 中 國 少 數 民 族 文 學 史 從 書 , 京 族 文 學 史 , 廣 西 教 育 出 版 社 , 1993 年 (Vĩ Duy Quang, Quá Vĩ, Vi Kiên Bình, Trung Quốc thiểu số dân tộc văn học tùng thư, Kinh tộc văn học sử, Quảng Tây giáo dục xuất bản xã, 1993).
Nguồn: Nguyễn Đổng Chi: học giả – nhà văn, Kỷ yếu hội thảo khoa học, nxb Trẻ, 2015.