Nguyễn Thanh Giang
“Cần gọi đúng
tên cuộc chiến này” là một bài viết hay, đầy tâm huyết và giá trị của nhà văn
Phạm Đình Trọng. Tuy nhiên đề xuất của tác giả gọi tên cuộc chiến hai miền Việt
Nam vừa qua là “Nội chiến” không được độc giả chấp nhận. Vì sao vây?
Trước hết, gọi
như vậy không đúng thực tế. Không ai thấy người dân miền Nam ra đánh Miền Bắc.
Cũng không thấy người dân Miền Bắc vào đánh Miền Nam, ngoại trừ những người bị
Cộng sản Việt Nam xúi giục/cưỡng bức.
Gọi như vậy sẽ
góp phần nuôi dưỡng hận thù Nam Bắc vốn đã ẩn tàng đâu đó.
Đã một thời
người ta xem tất cả những người sống ở Miền Nam đều là đang theo giặc, không
chỉ xâm lăng Miền Nam mà còn chuẩn bị lấp sông Bến Hải tấn công ra Bắc; xem tất
cả những ai bỏ nước ra đi đều là phản động, là phản bội tổ quốc đáng bị lên án,
đáng bị trừng trị.
Cũng thật ngạc
nhiên khi thấy cho đến bây giờ có những người vẫn xem người Miền Bắc nói chung
đều có tội đối với Miền Nam, không trực tiếp cầm súng xông trận nhưng cầy cấy
đóng thuế cho chính phủ cũng là tiếp sức cho cuộc Nam tiến; chỉ cầm phấn cũng
bị xem là đã góp phần đào tạo nên các cán binh Việt Cộng … Cho nên, có những
người từng ở trận tuyến bên này nhưng do thực tâm phản tỉnh đã có những đóng
góp rất lớn cho việc cải tạo nhận thức xã hội, đánh giá lại lịch sử, tích cực
góp phần tiêu diệt chế độ độc tài đảng trị của ĐCSVN như Trần Độ, Nguyễn Trọng
Vĩnh, Bùi Tín, Vũ Thư Hiên … vẫn bị ai đó coi là tội phạm. Cho đến cả những
người trước đây cùng ở phía bên kia, nay đang dấn thân hứng chịu nhiều gian nan
để đấu tranh cho những giá trị đúng đắn, chống lại cường quyền Cộng sản như
Nguyễn Đan Quế, Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Tấn Mẫm, Lũ Phương, Nguyễn Gia Kiểng … cũng
bị ném đá, bị thóa mạ một cách hết sức vô lương tâm.
Tuyệt đại đa số
người Việt Nam đã ở bên này hay bên kia sông Bến Hải, dù đã từng ôm súng xông
lên hàng đầu trong hai trận tuyến đều là những người rất đáng thương, đáng quý.
Khi xả súng quyết liệt về phía đối phương họ đều cho rằng họ đang chiến đấu và
sẵn sàng hy sinh vì nghĩa vụ cao cả đối với nhân dân, vì lý tưởng thiêng liêng
với tổ quốc. Oái oăm ở chỗ người càng biết sống vì lý tưởng, càng nồng nàn yêu
nước thì càng dũng mãnh xông lên, càng sắt máu và càng có hành động đáng phải
hối hận hơn. Người tiến lên dưới Ngọn cờ Đỏ Sao Vàng thì đinh ninh rằng họ đang
xả thân đánh đuổi giặc Mỹ, giữ lấy Miền Nam. Người xông tới dưới Ngọn cờ Vàng Ba
Sọc thì đinh ninh rằng họ đang dũng cảm Chống Cộng vì nền Cộng hòa, vì lý tưởng
tự do. Tất cả họ đều chân thành, đều đáng tôn vinh. Chín mươi chin phần trăm
người Việt Nam đều trong số đó, kể cả các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa, kể cả
các đảng viên ĐCSVN, cả Trần Độ, Nguyễn Hộ, Võ Văn Kiệt … Tất cả họ đều trong
sáng và đều đã bị lừa. Họ đều đáng thương ngay cả khi họ đã gây nhiều tội ác ghê
rợn, ngay cả khi họ đã từng hăng hái quảng bá những điều họ bị lừa để cùng kéo
nhiều người khác đi làm những việc vô nghĩa. Điều đó được suy ra từ chính người
đang viết bài này khi anh ta không chỉ đã từng tình nguyện đi bộ đội “Chống
Pháp” mà còn làm thơ bốc lửa hô hào chống Mỹ và sẵn sàng xung phong vào Nam
đánh giặc.
Dưới đây sẽ
chứng minh hầu hết người Việt Nam đều bị lừa, ngoại trừ một nhúm nhỏ đầu xỏ ở
hai phía.
Tên gọi “Nội
chiến” của nhà văn Phạm Đình Trọng không thỏa đáng và nên được bàn thảo, nhưng
tên gọi “Cuộc kháng chiến Chống Mỹ Cứu nước”, “Cuộc chiến Giải phóng Miền Nam” chắc
chắn không đúng. Tuyệt đại đa số người Việt Nam đều tưởng rằng ta đã anh dũng
Chống Pháp 9 năm, đã ngoan cường chống Mỹ 20 năm. Tất cả đều bị lừa. Tất cả đều
hiểu sai. Chỉ một nhúm nhỏ: Hồ Chí Minh và thuộc hạ thân cận nhất của ông gồm
Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng … biết mục đích cuộc chiến 1945-1954
không phải để chống Pháp. Chỉ một nhúm nhỏ: Hồ Chí Minh và thuộc hạ thân cận
nhất của ông gồm Nguyễn Chí Thanh, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ … biết mục đích cuộc
chiến 1955-1975 không phải để Chống Mỹ.
Trong khi Trung
Quốc rõ ràng là đối thủ trực tiếp của cả dân tộc ở cuộc chiến 1979 thì Pháp và
Mỹ không phải là mục tiêu đích thực ở hai cuộc chiến vừa nhắc đến.
Hồ Chí Minh
không hề coi Pháp là kẻ thù. Ngày
6 tháng 7 năm 1911, tại Marseilles, Nguyễn Ái Quốc đã viết thư đến Tổng thống
Pháp, xin được nhập học vào Trường Thuộc địa (École Coloniale), với mong muốn
được "giúp ích cho Pháp".
Ngày 16 tháng 2 năm 1946, Hồ Chí Minh cùng ông Hoàng Minh Giám đã bí mật
gặp Sainteny tại Hà Nội cho biết ông đang chuẩn bị thương
lượng trên nền tảng làm thành viên của Liên Hiệp Pháp. Trước đó tướng Leclerc
cũng từng thông báo rằng ông ta được nghe HCM nói bằng lòng rằng Việt Nam không
càn độc lập.
Chiều ngày mồng 6 tháng 3 năm 1946 Hiệp định Sơ bộ đã được ký kết giữa
chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Vũ Hông Khanh và đại sứ Pháp Sainteny tại căn nhà số
38 phố Lý Thái Tổ, Hà Nội, chấp nhận nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa nằm trong Liên Hiệp Pháp,
Trong khoảng thời gian này cụ Hồ tranh thủ gặp các nhà báo
Pháp để trả lời khoảng 10 cuộc phỏng bày tỏ rằng Việt Nam “không muốn phá vỡ những mối quan hệ đã
gắn bó chặt chẽ giữa hai dân tộc”, Việt Nam sẵn sàng tiếp nhận
người Pháp như là bạn, chứ không phải là thù.
Trong Hiệp định 6 tháng 3 có điều khỏan “Chính phủ Việt Nam
cam kết thân thiện đón tiếp quân đội Pháp vào Việt Nam theo các Hiệp định quốc
tế”.
Hiệp định 6/3
được ký kết khi nước Pháp đang do thủ tướng Felix Gouin (Đảng Xã Hội) và phó
thủ tướng Maurice Thorez (Đảng Cộng Sản) lãnh đạo. Điều này bảo đảm rằng chính
phủ Hồ Chí Minh sẽ được thừa nhận.
Hiệp định Sơ bộ
6 tháng 3 không được thực hiện, cụ Hồ dấy lên cuộc kháng chiến chống Pháp chỉ
khi Đảng Xã hội Pháp và Đảng Cộng sản Pháp không còn nắm được chính quyền,
trong khi nhiều thế lực chính trị ở Việt Nam lúc ấy có khả năng được Pháp thừa
nhận như Bảo Đại, Trần Trọng Kim, Việt Nam Quốc dân Đảng …
Hãy đọc đoạn sau trong hồi ký “Một cơn gió bụi” của Trần Trọng Kim:
“ …tôi bảo ông Phan Kế Toại đi tìm một vài người Việt Minh đến nói chuyện,
vì lúc ấy tôi còn tưởng đảng Việt Minh dù theo chủ nghĩa cộng sản, nhưng chắc
cũng nghĩ đến tương lai nước nhà. Hôm sau ông Toại đưa một thiếu niên Việt Minh
đến, tôi nói ‘chúng tôi ra làm việc chỉ vì nước mà thôi, chứ không có ý cầu
danh lợi gì cả, tôi chắc đảng của các ông cũng vì nước mà hành động. Nếu vậy
chúng ta tuy đi con đường khác nhau, nhưng cũng cùng một mục đích như nhau, các
ông thử xem ta có thể hợp tác với nhau, kẻ ở trong người ở ngoài để cứu nước
được không?
Người ấy nói: – Sự hành
động của chúng tôi đã có chủ nghĩa riêng và có chương trình nhất định để đem
nước đến chỗ hoàn toàn độc lập. Chúng tôi có thể làm lấy được.
– Sự mưu cầu cho nước được
độc lập cũng là mục đích của chúng tôi nhưng vì đi đường thẳng có nhiều sự khó
khăn, nên chúng tôi phải uyển khúc mà đi từ từ có lẽ chắc chắn hơn.
– Chúng tôi chỉ có một con
đường thẳng để đi đến hoàn toàn độc lập chứ không có hai.
– Theo như ý của các ông
như thế, tôi sợ rất hại cho dân, mà chưa chắc đã thành công được.
– Chúng tôi chắc thế nào
cũng thành công. Nếu có hại cũng không cần, có hại rồi mới có lợi. Dù trong
nước mười phần chết chín, chúng tôi sẽ lập một xã hội mới với một thành phần
còn lại còn hơn với chín phần kia.
Rồi người ấy đọc một bài
hình như đã học thuộc lòng để kể những công việc của đảng Việt Minh. Tôi thấy
thái độ người ấy như thế tôi biết không thể lấy nghĩa lý nói chuyện được.
Tôi nói: – Nếu các ông
chắc lấy được quyền độc lập cho nước nhà, các ông vào chính phủ làm việc, cần
gì phải đánh phá cho khổ dân?
- Chúng tôi sẽ cướp quyền
để tỏ cho cả nước đồng minh biết chúng tôi mạnh, chứ không chịu nhường cho ai”.
Đủ thấy rằng người ta đánh Pháp chủ yếu không phải
vì nhất thiết phải đuổi Pháp mà để “cướp lấy chính quyền” giữa những người Việt
Nam!
Nên nhớ rằng báo chí và các văn liệu của Đảng luôn luôn nói rằng người
Pháp đã phá không cho thực hiện Hiệp định Sơ bộ mồng 6 tháng 3, và Tạm ước
14 tháng 9 chứ không phải Việt Minh. Điều đó chứng tỏ cụ Hồ vẫn trung thành với
ước nguyện được nằm trong Khối Liên Hiệp Pháp.
Hồ Chí Minh cũng thừa hiểu Hoa Kỳ không có ý đồ xâm chiếm Việt Nam. Cụ đã
từng chủ trương liên kết với Cơ quan Tình báo Chiến lược Mỹ OSS - tiền thân của
CIA - nhằm củng cố sức mạnh Việt Minh. Tháng Bảy 1945 Trung Tá Allison Thomas cầm đầu “Toán
Con Nai” (Deer Team) đã được mời nhảy dù xuống Tân Trào để huấn luyện cho
khoảng hai trăm cán bộ chỉ huy bộ đội Việt Minh về cách sử dụng những vũ khí
mới nhất và chiến thuật du kích chiến.
Cho nên đối thủ chủ yếu của Hồ Chí Minh là chính
quyền Việt Nam Cộng hòa, chứ không phải Mỹ. Chủ trương “Đánh cho Mỹ cút, đánh
cho Nguy nhào” để rồi “Sẽ trải chiếu hoa đón Mỹ trở lại” của Hồ Chí Minh chứng
tỏ điều đó.
Dan díu với cuộc chiến Việt Nam là sai lầm của Mỹ.
Song, cũng thật tai hại khi Hồ Chí Minh ngoắc Chủ nghĩa Cộng sản vào vấn đề dân
tộc Việt Nam. Sao lại bắt trẻ con cũng phải yêu Chủ nghĩa Xã hội? Sao lại đưa xe
tăng Liên Xô và ùn ùn chở súng đạn Trung Quốc vượt sông Bến Hải? …
Nhẽ ra các
cuộc công kích của không lực Hoa Kỳ ra Miền Bắc đã không xẩy ra hoặc nhanh
chóng chấm dứt. Tổng Thống Johnson rất dè dặt trong việc để cho phi công Hoa Kỳ
tham chiến. Ngay cả sau khi phi trường Biên Hoà bị Cộng sản pháo kích, phá hủy
một số máy bay vừa đưa từ Philíppin qua và gây thương vong cho một số quân nhân
Mỹ và VNCH, Johnson vẫn không hạ lệnh trả đũa trên lãnh thổ Bắc Việt. Ông chỉ
đồng ý cho các phi cơ từ các hàng không mẫu hạm oanh tạc những đường xâm nhập
của cộng sản ở Nam Lào.
J. Blair Seaborn, trưởng đoàn Canada trong Ủy ban Giám sát Quốc Tế từng
chuyển cho thủ tướng Phạm Văn Đồng một thông điệp của Tổng thống Johnson cho
biết “Hoa Kỳ không có ý định tìm cách lật đổ chế độ cộng sản ở miền Bắc và cũng
không có ý định duy trì các căn cứ quân sự ở miền Nam, mà chỉ muốn giới lãnh
đạo Hà Nội giữ quân của họ trong lãnh thổ Bắc Việt và chấm dứt việc tiếp tế
quân sự cho miền Nam theo tinh thần các hiệp định Genève 1954 và 1962. Nếu đề
nghị này được chấp thuận, Hoa Kỳ sẽ viện trợ kinh tế cho tất cả các nước trong
vùng, kể cả Bắc Việt”.