Thứ Ba, 16 tháng 12, 2025

Không mưa ở Nhã Nam

 Trần Tuấn

 

Tôi đã về Đồi Cháy với Đồi Mơ, đã lang thang nơi truông Gọi Hồn với Ngọc Bơ Rẫy, đã gặp bà mẹ Lành với cô bé Lan... trong Ni bun chiến tranh của Bảo Ninh. Nơi đang cất giữ chiếc hộp đen kỳ bí của ký ức cho những con người cô đơn nhất trần gian. Những con người day dứt với đời sống làm người, với lương tri, với quá khứ mà mình cứ đòi được trả giá thay cho kẻ khác...

Tùy bút này viết 16 năm trước (2009), in trong tập Ung cà phê trên đường ca Vũ, 2017.

--------------------------------

...Cô Xoan với Đề Thám, hai người chung lưng ngựa vút giữa đêm mưa từ Bắc Giang về Nhã Nam. Cảm nhận tình yêu của Xoan, nhưng ông kiên quyết chối từ chính cảm xúc của mình, vì một lời hứa với anh con giai bị tật của cụ Đồ Hoạt. Đêm mưa Nhã Nam ấy, một mình một ngựa quay về Yên Thế, Đề Thám khóc cho hữu hạn của chính mình, của người. Ông khóc sụt sùi như anh bán bánh đa mật ở chợ Kế, chứ không phải của một “hùm xám” quật cường... Cô Xoan làm vợ con cụ Đồ, sau cả đời sống trải qua bao khổ ải, đớn đau, chiến tranh ly loạn, đói khát, giờ thành bà lão 84 tuổi tóc bạc trắng hiền lành bán quán ở bên thành Phồn Xương ngày nào, bên tượng ngưòi anh hùng Đề Thám xi măng cốt sắt, vẫn đau đáu một mối tình với “ông ấy” cất giấu sau bầu ngực nhăn nheo. Thiên truyện ngắn Mưa Nhã Nam của Nguyễn Huy Thiệp gây nhiều tranh cãi về hình tượng người anh hùng Yên Thế, lại khiến tôi váng vất hơn khi ngược về Nhã Nam...

Nhã Nam hôm tôi về, không mưa. Thực ra cơn mưa nào từ tuần trước dù đã tạnh lâu vẫn đọng dưới lớp bùn đỏ lép nhép vùng đồi trung du. Phố huyện nghèo, cũ kỹ, như người già đang thở ra từng hơi ngắn trong ngôi nhà mái đổ bụi ngồi ngóng bên đường. Những con ngựa già kéo xe lóc cóc ngang chợ huyện. Ba chữ “Chợ Nhã Nam” bằng xi măng đóng rêu mờ mịt nay rớt chữ gần hết, còn như hàm răng người già...

Nhã Nam chỉ vậy thôi. Nhưng tôi nghĩ hình như nơi đây đang cất giữ chiếc hộp đen kỳ bí của ký ức cho những con người cô đơn nhất trần gian? Những con người day dứt với đời sống làm người, với lương tri, với quá khứ mà mình cứ đòi được trả giá thay cho kẻ khác...

“Nhưng mà tâm hồn tôi thì đã ngưng bước lại ở những ngày tháng ấy chứ không tài nào mà đổi đời nổi như là bản thân đời sống của tôi. Một cách trực giác tôi luôn nhận thấy quanh tôi quá khứ vẫn đang lẩn khuất...”. Nhân vật Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh, đã mở đầu những trang tiểu thuyết gạch xoá nhằng nhịt của mình như vậy. Nhân vật ấy, hay chính Bảo Ninh khi bắt tay vào cuốn tiểu thuyết về cuộc chiến trong tâm trạng mấp mé bờ vực của đớn đau, để rồi, đêm đêm bên trang giấy, “cứ thế, nửa điên rồ Kiên lao vào chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình, một cách đơn độc, phi hiện thực, một cách cay đắng, đầy rẫy va vấp và lầm lạc”.

Bảo Ninh, hiện thân của nhà văn Kiên, có ba tháng luyện quân ở Nhã Nam, trước khi được tung vào chiến trường. Một trong những chương hay nhất về ẩn ức quá khứ của Nỗi buồn chiến tranh chính là chương 2, kể chuyện Kiên về thăm lại Nhã Nam, với túp lều tranh nơi ngọn Đồi Mơ hiu hắt có bà mẹ Lành và cô bé Lan từng nuôi tổ “tam tam” của anh hơn hai mươi năm trước. Khởi nguồn cảm hứng, đúng hơn là mệnh lệnh, là sự câu thúc mơ hồ của quá khứ. Tìm dấu chân trai trẻ đầu tiên bước vào cuộc chiến. Thì Đồi Mơ Nhã Nam, nào khác chi truông Gọi Hồn nơi bìa rừng Ngọc Bơ Rẫy đẫm máu và nước mắt? Mẹ Lành đã mất lâu lắm rồi, một buổi chiều ngay sau cuộc chiến. Cùng một ngày, buổi sáng, buổi chiều, người ta đưa về Nhã Nam hai giấy báo tử các con trai mẹ. Mẹ như bị xô ngã, thiếp đi, bằn bặt, không hề tỉnh lại nữa. “Giá kể hồi đó người ta hẵng gườm gượm, báo tử lần lượt thưa ra thì có khi mẹ em vẫn còn sống được tới giờ”, Lan kể lại với Kiên như vậy. Lan giờ thành người đàn bà tuổi tác luống chiều, xạm xĩnh vì thời gian, không chồng con, cứ bên Đồi Mơ mong ngóng về một thứ ngày xưa nào đó...

Kiên - Bảo Ninh trở về sau chiến tranh, đầy day dứt. Còn một người nữa, cùng thời, cùng tuổi, cùng những ngày tháng luyện quân cấp tốc ở Nhã Nam, nhưng không bao giờ trở về: liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc! Trang nhật ký viết đúng hôm từ biệt Nhã Nam, sau này ra mắt với cái tên “Mãi mãi tuổi Hai Mươi”, lại đầy trong trẻo: “Ta muốn thăm lại thị trấn Nhã Nam, quả bàng chín rụng, thăm hòm thư của bưu điện giấu một niềm tâm sự, một lời thủ thỉ… Ta muốn lại ngồi trong quán nước, gặp bà hàng nhai trầu bỏm bẻm, muốn đi qua sân bóng, muốn vào thăm mái lều san sát của bãi chợ ồn ào… Ta muốn vào thăm nhà bên kia đồi, có cái xe bò và có anh chàng canh đồi dẻ, thăm cụ già mù bật ngón trên cái kèn đưa người ra ruộng…”. Trong nhật ký, Nguyễn Văn Thạc nhắc đến người bạn lính cùng tuổi Hoàng Nhuận Cầm, chàng thi sĩ hơi ngang tàng, suy tư nhiều về đời sống, thường hay “lang thang trong đêm”, từng có những ngày “bê tha ở chợ Nhã Nam”..., khác với Nguyễn Văn Thạc ngày ấy. Mãi mãi tuổi Hai Mươi với một Nhã Nam xưa cũ, có lẽ bởi người lính giỏi Văn nhất miền Bắc Nguyễn Văn Thạc không kịp ra khỏi cuộc chiến tranh này để bước vào một cuộc chiến khác như Kiên trước những trang bản thảo đời sống? Bởi anh không thể về lại thăm ngôi nhà bên kia đồi, thăm lại những cảnh đời của mẹ Lành, của Loan, mở ra chiếc hộp ký ức đen sạm lửa đạn, máu và nước mắt?

* *

Nhã Nam, mảnh đất kỳ lạ chỉ giành riêng cho những người cô đơn nhất. Nỗi cô đơn cùng cực tiền kiếp của văn-chương-làm-người, như cụ Nguyên Hồng đang nằm bên bờ suối mạn Đồi Cháy, ấp Cầu Đen bây giờ đây.

Cây khế già trước sân nhà văn Nguyên Hồng có vị thật lạ. Những quả khế chín vàng, căng mẩy được Bình – cháu nội nhà văn hái xuống còn đính theo cả chùm lá xanh mướt. Nhấm nháp múi khế, cùng chén rượu Vân Hà. Vị chua dịu ngọt dịu thơm dịu của khế với vị nồng dịu của thứ rượu làng Vân nổi tiếng đất Bắc Giang khiến kẻ khách lạ chếnh choáng. Cái hương vị lạ lùng dẫn dắt tôi nhìn ra một con mắt khác như câu thơ của Nguyễn Huy Thiệp trong truyện ngắn Mưa Nhã Nam: “Có đôi mắt nào mở to trong tim ta/ Và mỗi cái chớp mắt đều khiến ta nhói lòng...”.

Ông Nguyễn Vũ Giang, người con thứ hai của nhà văn, hiện sống tại chính ngôi nhà xưa để quản thủ di sản tinh thần của cha mình, cùng tôi ngồi dưới gốc khế nhấm nháp chén rượu khế. Kể, từ hơn 60 năm trước, Nguyên Hồng ngồi tàu từ Hải Phòng về Bắc Giang, ôm khư khư cái nồi đất có ươm cây khế nhỏ xíu. Giờ thì nó đã tỏa bóng rộng dài xum xuê thế này đây. Gốc cây già đã bạch phếch theo thời gian, vậy mà hương vị, hoa trái, lá cành vẫn tươi mởn sức sống. Lại kể, sinh thời Nguyên Hồng mỗi lần viết, thường ra vườn hái một quả ổi còn nguyên lá đặt trên bàn như một cách tìm cảm hứng. Nhưng chính khế, mới là món nhâm nhi với rượu của nhà văn lúc cao hứng. Cái món nhắm dường như chỉ mang nặng hương vị tinh thần, giữa cảnh sống lao lực, đói rét thời ấy. Người ta đang tôn vinh Cây di sản, như cây me của anh em nhà Tây Sơn đất võ Bình Định. Còn với đất Văn trên đồi Cháy - Nhã Nam này, nơi những danh tài Ngô Tất Tố, Kim Lân, Đỗ Nhuận, Trần Văn Cẩn, Tạ Thúc Bình ... từng đưa gia đình về quây quần làm hàng xóm của nhau trong những ngày kháng chiến, như một làng văn chương, thì cây khế Nguyên Hồng có xứng đáng là cây Di sản?

Tôi về Nhã Nam đúng bữa giỗ bà Nguyên Hồng. Nghe kể khi cùng chồng ôm 5 đứa con dứt áo rời đất Hà thành, cụ Vũ Thị Mùi đang làm ở hiệu sách ngoại văn, biết tiếng Pháp. Nhiều lúc hai vợ chồng nhà văn người ngợm lam lũ như thợ cày trong căn nhà tranh vách đất lè tè trên ngọn đồi Cháy vẫn đàm đạo với nhau bằng tiếng Pháp. Đêm đêm, cụ bà vẫn thường giúp chồng chép bản thảo. Thế mới biết đức nhẫn nại hy sinh của vợ nhà văn, cùng chia sẻ bầu khí khái với chồng dám bỏ tất cả để về sống đời đói rét mà thanh thản. Bốn chữ “Huyết Lệ Thành Văn” trên tường, nền giấy đã ngả màu rêu ẩm kia cứ hồng lên tưởng chừng vẫn đọng từng khối nước mắt bên trong.

Lúc lên thăm mộ Nguyên Hồng, tôi bắt gặp nơi an nghỉ của thầy giáo Khuất Chi Mai nổi tiếng đất Nhã Nam, người bạn vong niên với nhà văn. Một cái tên như bút danh thi sĩ. Kỳ thực cụ Mai bị mất một cánh tay, nên chọn cái tên chữ cho mình như vậy. Cụ Mai ngày ấy là hiệu trưởng trường cấp 2 xã Quang Tiến (huyện Tân Yên), cách nhà Nguyên Hồng vài trăm mét. Năm 1972, mái rạ của ngôi trường tuềnh toàng ấy bị tốc, học trò lướt thướt gió mưa. Nhà văn Nguyên Hồng khi ấy dù cảnh nhà hết sức neo bấn, đã đem tặng cho trường toàn bộ số tiền nhuận bút tiểu thuyết Sóng Gầm vừa mới nhận. Số tiền ấy đủ để lợp ngói cho 2 lớp học. Là những lớp học đầu tiên được lợp ngói tại đất này, lợp bằng mồ hôi nước mắt trên từng trang sách của nhà văn nghèo. Sau này ngôi trường ấy được mang tên nhà văn Nguyên Hồng.

Ngồi nơi Đồi Cháy, tôi nghĩ nhiều về giấc mơ đời người. Đồi Cháy hay là Đồi Mơ đây? Khổ đau, thất vọng gieo quá nhiều hạt đắng, hạt đau, nhưng đêm đêm, giữa đói lạnh và cô đơn cùng cực, nhà văn vẫn chiu chắt ươm thành những hạt chữ chất chứa tình yêu con người, không một chút oán hận. Để làm một con người đúng nghĩa, có lẽ nhiều khi người ta phải biết mơ, không phải những giấc mơ hoang vu, mà mơ giản dị về những điều tốt đẹp...

... Nhã Nam không mưa. Thậm chí chỉ là mưa bóng mây, “thứ mưa xoàng” bữa nào đó Nguyễn Huy Thiệp bắt gặp khi về Phồn Xương. Thiệp chưa bao giờ làm thơ. Đề Thám cũng chưa bao giờ làm thơ, có lẽ vậy. Nhưng những câu thơ này trong Mưa Nhã Nam lại khiến tôi thêm một lần váng vất. Khi về Nhã Nam.

...Những con đường chúng ta đi qua

Tất cả đều xám xịt lầm bụi

Mỗi cung đường, mỗi vận hạn

đều xám xịt, lầm bụi

Mà vầng trăng kia xa lắc

Vầng trăng kia lơ lửng trên đầu

Có đôi mắt nào mở to trong tim ta

Và mỗi cái chớp mắt đều khiến ta nhói lòng ...

Nhã Nam, 2009

 

Chợ Nhã Nam, 2009. Ảnh Trần Tuấn

Nhã Nam, 2009. Ảnh Trần Tuấn

Những truông Gọi Hồn, những Ngọc Bơ Rẫy... 2001. Ảnh Trần Tuấn