[Rút từ bộ tư liệu ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI do Lại Nguyên Ân và Nguyễn Thị Bình tổ chức sưu tầm, bản đánh máy do Trung tâm VH-NN Đông Tây thực hiện]
PHỎNG VẤN NHÀ BÁO NGUYỄN QUANG SÁNG VỀ QUYỂN NỖI BUỒN CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH
NGUYỄN QUANG SÁNG
Cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh sau khi được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam đã gây ra nhiều cuộc tranh cãi trong giới văn học. Nhiều bài viết phê phán tác phẩm này đã in trên các báo và dư âm của nó vẫn còn trong dư luận không chỉ riêng với văn học mà đã trở thành nỗi quan tâm trong dư luận quần chúng.
Tại sao tác phẩm bị nhiều tai tiếng ấy lại được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải, bối cảnh "lịch sử" lúc ấy như thế nào và suy nghĩ của các thành viên Ban Giám khảo ra sao? Bức xúc trước vấn đề của bạn đọc quan tâm, vừa qua báo Công an thành phố đã có cuộc trao đổi với nhà văn Nguyễn Quang Sáng, Tổng thư ký Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh và là một thành viên của cuộc bỏ phiếu trao giải cho tác phẩm nói trên.
Sau đây là bài trả lời của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, với tựa nhỏ là "Lời báo trước của một bạn đọc".
Lời báo trước của một bạn đọc
Nhắc đến tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của anh Bảo Ninh, tôi xin trích một đoạn trong Dự thảo báo cáo của Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam trong Đại hội Nhà văn lần thứ V trong vấn đề này, như sau:
"... Hội đã thực hiện đều đặn việc trao giải thưởng hàng năm. Nhìn chung, các tác phẩm được giải đều lành mạnh, được bạn đọc quan tâm. Tuy nhiên, thời gian đã và đang sàng lọc có giá trị. Một vài cuốn sách đã gây nên những ý kiến khen chê rất trái ngược nhau. Đáng chú ý nhất là tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Khi thảo luận để xét trao giải, Ban chung khảo và Ban Chấp hành Hội đều có một số ý kiến thấy cuốn sách có những mặt mạnh cần biểu dương, khuyến khích; nhưng ngược lại, có những nhược điểm quan trọng.
Trong phiếu giám định cuốn sách của Bảo Ninh, có hai ủy viên Ban chung khảo thiên về khen ngợi.
Một số ủy viên chung khảo khác chấp nhận những mặt được, nhưng có sự đánh giá khác không giống hai ý kiến trên:
"... Chủ đề có chiều sâu. Nhưng cái nhìn hiện thực có nét chủ quan, không đúng hẳn với hiện thực lịch sử. Tác giả muốn đứng cao hơn cả hai phe trong cuộc chiến đó. Nhưng tác giả chưa đủ điều kiện để giữ được thăng bằng".
"... Cách nhìn nhận lại quá khứ chiến tranh và cả cách nhìn hiện tại có những biểu hiện chủ quan thiên lệch đến nặng nề tối tăm mà độc giả thông thường kể cả những người đã trải qua cuộc chiến đấu khốc liệt như trong truyện khó có thể chấp nhận và coi đó là chân lý lịch sử".
"... Có những điều khiến người đọc phân vân: Địch và ta vào cuộc chiến phải có cái khác nhau cơ bản chứ. Toàn truyện thiên về các mặt tiêu cực bi kịch. Có cái gì đó hơi quá khích, quá liều lượng. Có thể là do tâm trạng nặng nề ảnh hưởng vào cách nhìn".
"... Nhưng không ai nghi ngờ tác giả muốn tạc tượng đài cả thế hệ bạn bè mình đã hy sinh, nhưng chỉ quá một tý nữa thì tác giả sẽ phản lại đồng đội mình, tả họ như là hy sinh vô ích".
"Sau đó Ban Chấp hành có trao đổi bàn bạc, giao cho báo Văn nghệ tổ chức lấy ý kiến về cuốn sách. Đến nay, đa số trong Ban Chấp hành thấy việc tổ chức thảo luận khi ấy chưa thật kỹ, chưa qua thử thách của dư luận, việc trao giải cho Thân phận của tình yêu (Nỗi buồn chiến tranh) năm 1991 là thiếu chín chắn, nặng về khuyến khích một cây bút trẻ đã trải qua chiến đấu, mà coi nhẹ tính định hướng của giải thưởng.
Sự mơ hồ và u ám trong cách nhìn của Bảo Ninh khi miêu tả cuộc kháng chiến chống Mỹ đã bị một số người thiếu thiện ý ở nước ngoài lợi dụng, nhằm xóa ranh giới giữa chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa; thêm nữa, chính tác giả cuốn sách khi trả lời nước ngoài phỏng vấn cũng bộc lộ những quan điểm sai trái. Bạn đọc trong nước phê phán cuốn sách này càng ngày càng nhiều. Đó là sự nhắc nhở chính đáng của dư luận, là bài học kinh nghiệm của chúng ta...".
Thái độ của Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV đối với quyển sách Nỗi buồn chiến tranh của anh Bảo Ninh là nghiêm túc và khá đầy đủ.
Nếu hỏi trách nhiệm của riêng tôi và suy nghĩ của cá nhân tôi đối với quyển sách Nỗi buồn chiến tranh, thì tôi là người chịu trách nhiệm chung với Ban Chấp hành.
Giải thưởng Văn học của Hội Nhà văn Việt Nam 1991, tôi không có chân trong Ban Giám khảo, nhưng với tư cách là thành viên của Ban Chấp hành, tôi có quyền bỏ một lá phiếu chấp nhận hoặc phủ nhận giải thưởng.
Tôi nhận ra mặt mạnh cũng như mặt yếu của tác phẩm, và bỏ phiếu thuận với ý nghĩ đây là một cây bút trẻ xuất thân từ một người lính cầm súng, học viên Trường viết văn Nguyễn Du, với tác phẩm đầu tay đã viết với tâm huyết của mình. Lá phiếu của tôi là phiếu khuyến khích một cây bút trẻ trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Tôi nghĩ rằng, đối với người hiểu biết văn học không ai có thể coi đây là một tác phẩm tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, lại càng không thể coi đây là một tác phẩm tiêu biểu về cuộc chiến tranh đánh Mỹ của nhân dân ta.
Nhưng cái điều không ngờ nó lại đến. Không ngờ những người trong nước cũng như nước ngoài thiếu thiện chí đã khoét sâu cái mặt nhược của tác phẩm để thực hiện ý đồ chính trị của mình.
Tôi có một người bạn lớn hơn tôi vài tuổi, vừa sành ăn, vừa sành đọc. Lần nào đọc của tôi, anh cũng có lời khen và lời chê. Bao nhiêu năm qua tôi thấy anh chưa chê sai lần nào. Nhân đọc Nỗi buồn chiến tranh, anh bảo tôi:
" ...Đọc vô đầu, tôi thấy đây là kiểu mở đề theo kiểu Số phận một con người của "Solokhov", vừa đọc tôi vừa nhớ "Romac" và nhớ quyển Tấc đất của một nhà văn Nga viết về chiến tranh. Nhưng đọc được, có đoạn cảm động, nhưng buồn quá. Ngay cái tên sách cũng đã nói rõ cái ý của người viết. Chiến tranh, dứt khoát không thể là niềm vui, nhưng không chỉ có nỗi buồn. Cuộc chiến tranh của một dân tộc chống xâm lăng là "khúc ca bi hùng". Ở đây chỉ có bi mà không có hùng, chỉ có phân nửa sự thật thôi. Phân nửa sự thật thì không phải là sự thật, dễ bị xuyên tạc. Các ông trao giải cho tác phẩm này, trước sau gì các ông cũng bị "ăn đòn".
Qua lời kiểm điểm của Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam về giải thưởng Nỗi buồn chiến tranh trong báo cáo đọc trước Đại hội, tôi thấy lời báo trước của anh là đúng, tôi là một trong những người bị "ăn đòn" của nhân dân.
Nguồn: Công an thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM (13-9-1995)
***
TRẢ LỜI PHỎNG VẤN VỀ CUỐN NỖI BUỒN CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH
NGUYỄN KHẢI
Nhà văn Nguyễn Khải là một cây bút rất cẩn trọng, ông có nhiều tác phẩm gây được tiếng vang và để lại ấn tượng trong lòng người đọc. Trong "bối cảnh lịch sử" của giai đoạn tặng giải thưởng cho cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, nhà văn Nguyễn Khải cũng là một thành viên trong Ban Giám khảo. Vừa qua, báo Công an thành phố đã phỏng vấn ông về vấn đề này, và sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn...
P.V. - Thưa anh, là một thành viên trong Ban Giám khảo, anh có suy nghĩ như thế nào khi bỏ phiếu trao giải cho cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Sau khi có dư luận phản ứng, anh nhìn vấn đề này như thế nào?
NGUYỄN KHẢI - Tôi là người đã bỏ phiếu ủng hộ ba cuốn tiểu thuyết: Nỗi buồn chiến tranh, Mảnh đất lắm người nhiều ma và Bến không chồng vào giải thưởng hàng năm của Hội Nhà văn. Lần đầu được đọc ba cuốn sách đó, tôi rất mừng vì những mảng hiện thực khá gai góc đã được miêu tả kỹ lưỡng và tài hoa, và cả những tìm tòi rất đáng ghi nhận trong nghệ thuật viết tiểu thuyết. Chúng tôi cũng có bàn nhiều tới mặt yếu kém của từng tác phẩm, nhất là cuốn Nỗi buồn chiến tranh vì cách nhìn chiến tranh của tác giả còn phiến diện và cái không khí ngột ngạt, u ám bàng bạc trong nhiều chương sách. Riêng tôi thì nghĩ đây là tác phẩm đầu tay của một tác giả còn trẻ. Nếu được khuyến khích thì anh ta sẽ nhanh chóng khắc phục được cách nhìn chủ quan, hạn hẹn của tác phẩm đầu. Tôi nói thế nhưng có mấy anh trong Ban chung khảo vẫn rất phân vân. Khi bỏ phiếu, riêng cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh không được toàn thể số phiếu. Sau khi giải thưởng được công bố, sự phản ứng của dư luận bạn đọc là tức thì, vượt khỏi cách nghĩ ban đầu của tôi. Nhiều bạn bè trong quân đội đã gặp tôi để bày tỏ sự phản đối việc trao giải của Hội Nhà văn cho Nỗi buồn chiến tranh. Các anh ấy nói với Bảo Ninh thì chẳng có gì để nói nhiều. Sự từng trải của anh ta ở chiến trường là thế, tâm sự của anh ta là thế thì cũng chỉ viết được đến thế, không thể đòi hỏi hơn. Nhưng Hội Nhà văn lại tuyên dương một cuốn sách viết về chiến tranh với một tâm trạng và cách nhìn của một người bi quan thì thật hết sức lạ lùng. Các anh ấy có quyền hỏi chúng tôi: Vậy chúng tôi là những người như thế nào? Chúng tôi muốn gì? Nghe xong mà tôi ớn lạnh cả người. Tôi chỉ còn biết tự rút ra một kết luận: phàm đã đọc và đánh giá một tác phẩm văn học không nên chỉ căn cứ vào những cảm hứng ban đầu thuần túy văn chương của mình, mà còn phải biết nghĩ đến tác động của nó về mặt xã hội và chính trị tới đông đảo bạn đọc không chỉ ở trong nước mà còn cả ở ngoài nước. Không phải mình muốn bày vẽ ra thế, mà sự đời nó buộc mình không thể không nghĩ rộng ra như thế.
P.V. - Vừa qua đã có những cuộc tranh luận trên lãnh vực văn học mà một số tác phẩm đã tạo sự tranh cãi giữa các nhà phê bình văn học với nhau hoặc với chính tác giả của tác phẩm bị phê phán. Qua đó anh nghĩ gì về tình hình văn học hiện nay?
NGUYỄN KHẢI: Theo tôi, tình hình sáng tác văn học hiện nay là rất đáng lạc quan. Các thể loại văn học: tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, phóng sự và phê bình văn học đều có sức sống mới với nhiều cách viết khác nhau. Tác phẩm thật hay thì còn hiếm, nhưng đọc được, đọc thích thì nhiều. Ngay những bài báo của hôm nay đọc cũng rất thích. Dân trí phát triển thì những cây bút chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp cũng phải tự nâng mình lên. Tất nhiên cũng như các mặt hoạt động khác của một xã hội đang phát triển, có nhiều cái hay xuất hiện thì cũng không thiếu cái dở xen lẫn vào. Cuộc đấu tranh giữa cái tốt và cái xấu, cái đúng và cái sai, cái hay và cái dở là mãi mãi. Nó chính là sự sống của một nền văn học. Nó có ý nghĩa rất tích cực nếu các cuộc tranh luận ấy đều nhắm tới mục tiêu là đoàn kết đội ngũ, mong muốn giúp nhau gạt bỏ mọi trở ngại để cùng tiến lên cho kịp với bước đi của xã hội, của bạn đọc.
Trong số bạn bè quen biết nhau đã lâu năm, có nhiều anh rất mẫn cảm về cái đẹp, cái mới trong nghệ thuật, lại có những anh đặc biệt sắc bén về chính trị, thường có những nhận định chính xác trước mọi diễn biến phức tạp của thời cuộc. Nếu họ biết cách nói với nhau và chịu khó nghe nhau thì mọi sự sẽ tốt đẹp biết mấy. Tôi vốn là người không được chín chắn về chính trị nên rất thích kết bạn với những anh từng trải hơn để mở rộng sự hiểu biết của mình. Chả có gì phải ngượng ngùng, phải tự ái cái chuyện đó cả. Có mấy ai được hoàn toàn đâu. Mình biết nghe và chịu nghe, dẫu những lời được nghe không phải bao giờ cũng dễ chịu, thì dễ vứt bỏ được những hành lý thừa. Đời nhiều việc, việc nào cũng khó, buộc chặt những thứ không cần thiết vào người làm sao mà đi nhanh, đi xa được. Huống chi tuổi cũng đã lớn rồi.
Tôi thiển nghĩ, người có lẽ phải từ xưa tới nay luôn luôn là người có tấm lòng khoan dung, nhân hậu. Vì bản thân lẽ phải không cần tranh thua hơn với ai, cũng không cần căm ghét hoặc loại bỏ ai, tự nó đã có đủ sức mạnh để thuyết phục, đoàn kết mọi người cùng làm việc trong niềm vui, trong niềm tin cho sự nghiệp đổi mới trong văn học.
P.V. - Thưa anh, với một dư luận chung rất quan tâm đến vấn đề văn học như hiện nay, cũng có nghĩa là dự báo cho tương lai. Vậy theo anh, có thể hy vọng một sự phục hưng về văn hóa dân tộc trong tương lai không?
NGUYỄN KHẢI: Thời này đối với chúng ta là thời phục hưng dân tộc. Quang cảnh đất nước bừng sáng ở mọi nơi, tất nhiên có nơi sáng nhiều, có nơi còn sáng ít nhưng tất cả đã đổi thay, nhanh chóng đến kinh ngạc. Không phải mọi việc đều đã tốt nhưng mọi sự tốt đẹp đều đã bắt đầu. Trong tình hình đó nếu ta hy vọng một sự phục hưng về văn hóa dân tộc cũng không có gì là quá đáng. Nên tôi rất tin vào sự phát triển mới của văn học Việt Nam vừa rất dân tộc vừa rất hiện đại, vừa là chính mình, vừa là một phần của nhân loại. Nếu không là chính mình thì cũng mong ai trọng mình. Mà mình đâu có tầm thường. Dân tộc Việt Nam, tính cách Việt Nam, tâm hồn Việt Nam đã là một đề tài được bàn luận, được nghiên cứu, được viết trong nhiều cuốn sách của bạn bè khắp năm châu. Còn chúng ta, là người Việt Nam, người trong cuộc lại chưa đóng góp được bao nhiêu trong sự giải đáp nhiều câu hỏi của bạn bè. Tôi đã hỏi chuyện nhiều anh hùng trong chiến tranh và trong lao động. Việc làm của họ gần như một kỳ tích, một huyền thoại nhưng họ lại bảo là chả có gì và chỉ kể lại một cách bình thường về những sự "chả có gì" của họ. Khi tôi viết xong đưa các anh ấy đọc, họ có vẻ ngạc nhiên và khen: "Nhà văn viết có khác". Suốt một đời sống với cái hàng ngày, lo lắng buồn vui với bao nhiêu chuyện vặt vãnh hàng ngày nên đã quên mất tầm nhìn bao quát của con đại bàng bay lượn trên tầng cao. Phải sống với cái hàng ngày, đó là điều tất nhiên, không thế thì sống làm sao? Nhưng cũng lại phải biết tự tách mình ra để ngẫm nghĩ, để nhìn lại chính mình và đồng loại, nghĩ về hôm nay và cội nguồn sâu xa của nó thì rồi sẽ có lúc nhận được cái ánh sáng kỳ diệu của sự kết tinh, là phần hồn của những hình tượng nghệ thuật độc đáo có sức quyến rũ lâu dài.
P.V. - Xin cám ơn nhà văn Nguyễn Khải.
P.V. thực hiện
Nguồn: Công an thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM (20-9-1995)
***
TRẢ LỜI PHỎNG VẤN CỦA BÁO CÔNG AN THÀNH PHỐ VỀ CUỐN NỖI BUỒN CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH
VŨ TÚ NAM
Nhà văn Vũ Tú Nam, nguyên Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV, là thành viên của Ban chung khảo trao giải thưởng cho cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Vừa qua, báo Công an thành phố đã phỏng vấn ông về bối cảnh lịch sử để đi đến quyết định trao giải thưởng này và phần trách nhiệm của riêng ông khi bỏ lá phiếu "thuận" cho một cuốn sách đã gây nhiều cuộc tranh cãi và nhận nhiều điều phê phán của dư luận trong thời gian qua.
Bằng cái nhìn thẳng thắn vào sự kiện, với cái tâm của một ngòi bút và trách nhiệm của một thành viên trong Ban chung khảo, nhà văn Vũ Tú Nam đã trả lời nghiêm túc qua cuộc trao đổi với báo Công an thành phố như sau:
P.V. - Thưa anh, là Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV, anh đã suy nghĩ như thế nào khi bỏ phiếu trao giải cho cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh? Sau khi có dư luận phản ứng, anh nhìn vấn đề này như thế nào?
VŨ TÚ NAM - Tôi hoàn toàn nhất trí với sự đánh giá về cuốn Nỗi buồn chiến tranh và việc tự phê bình của tập thể Ban Chấp hành Hội Nhà văn khóa IV trong Báo cáo trước Đại hội lần thứ V mà anh Nguyễn Quang Sáng đã nêu lên trên quý Báo, số 478, ra ngày 13-9-1995. Tôi xin phép không nhắc lại ở đây.
Về phần cá nhân, khi bỏ phiếu trong Ban chung khảo, tôi đã thiên về khuyến khích một cây bút trẻ có năng khiếu văn học, đã trải qua chiến đấu thực sự. Tôi cũng đã rất phân vân về những mặt yếu kém của cuốn sách, như: Sự mơ hồ của tác giả giữa chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa, cái nhìn u ám nặng nề, chỉ thấy sự mất mát riêng tư mà không thấy chiến thắng lớn lao do đóng góp của toàn dân. Tôi không cho rằng khi viết, tác giả có ý đồ xấu về chính trị, nhưng sự mơ hồ và cái nhìn u ám của anh đã khiến cuốn sách phản ánh méo mó cuộc chiến đấu thiêng liêng của dân tộc.
Trong cuộc họp Ban Chấp hành để xét giải thưởng, vì còn rất phân vân trước những đánh giá khác nhau, tôi đã nêu lên ý kiến Ban Chấp hành có nên bác bỏ quyết định của Ban chung khảo về cuốn Nỗi buồn chiến tranh không. Nhưng rồi giải thưởng vẫn được thông qua, và tôi cũng vẫn bỏ phiếu thuận. Trách nhiệm thuộc về toàn thể Ban Chấp hành, nhưng tôi là người chịu trách nhiệm trước nhất. Sự phê phán của công luận sau đó là chính đáng. Tuy nhiên, tôi phải nói rằng các đồng chí trong Ban chung khảo và Ban Chấp hành - tuy sự đánh giá của mỗi người về cuốn sách của Bảo Ninh có khác nhau - nhưng các đồng chí đều là những người có thiện chí, muốn đóng góp cho văn học phát triển.
Việc một số người nước ngoài thiếu thiện ý, cố tình xuyên tạc khi dịch và bình luận về cuốn Nỗi buồn chiến tranh rất cần được phê phán để phân rõ trắng đen.
Sau khi cuốn Nỗi buồn chiến tranh ra đời, anh Bảo Ninh viết tiếp những gì, trả lời phỏng vấn báo nước ngoài, hay dở, đúng sai ra sao, cá nhân anh ấy chịu trách nhiệm. Con đường thử thách trước cây bút ấy còn dài lắm.
P.V. - Vừa qua đã có những cuộc tranh luận trên lĩnh vực văn học, xin anh cho biết ý kiến của mình. Anh nghĩ gì về tình hình văn học nước ta hiện nay?
V.T.N. - Các cuộc tranh luận đều có những điều bổ ích, nhưng nên trung thực, nhằm mục đích đoàn kết đội ngũ, tạo môi trường lành mạnh cho văn học phát triển. Chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc, ở lĩnh vực nào cũng gây ra những hậu quả tai hại.
Tôi lạc quan về tình hình văn học nước ta, nhiều nhà văn đang lặng lẽ viết và viết, không ồn ào, không phô trương, cố gắng nói những điều tâm huyết. Các anh các chị đã đóng góp nhiều trong những năm đổi mới, và sẽ tiếp tục có những tác phẩm có chất lượng trong những năm cuối thế kỷ này.
P.V. - Xin cám ơn nhà văn Vũ Tú Nam.
P.V. thực hiện
Nguồn: Công an thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM, (27-9-1995)
***
TRẢ LỜI PHỎNG VẤN CỦA BÁO CÔNG AN THÀNH PHỐ VỀ CUỐN NỖI BUỒN CHIẾN TRANH CỦA BẢO NINH
NGUYỄN THỊ NGỌC TÚ - VŨ QUẦN PHƯƠNG
Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú là tác giả của nhiều tập trực tiểu thuyết, truyện ngắn... đứng được trong lòng độc giả. Trong thời điểm trao giải cho cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú là ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn khóa IV, Phó trưởng ban Công tác hội viên. Hiện chị là Tổng biên tập Tạp chí Tác phẩm mới.
P.V. - Thưa chị, là một trong 9 thành viên của Ban Chấp hành Hội Nhà văn khóa IV, chị có thể cho biết suy nghĩ của mình sau khi dư luận phản ứng cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh được giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991?
NGUYỄN THỊ NGỌC TÚ - Có 2 yếu tố để tôi góp một ý kiến của mình vào việc trao giải thưởng cho Nỗi buồn chiến tranh:
1- Là một người viết, tôi rất mừng và đón đọc những tác phẩm của các cây bút mới xuất hiện và luôn cởi mở trong việc đánh giá họ vì chặng đường văn học của họ còn dài, còn nhiều thử thách. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, một số truyện ngắn và tiểu thuyết của Hồ Anh Thái... là những tác phẩm tôi chú ý.
2- Giải thưởng Hội Nhà văn 1991 trao cho ba tác phẩm là Bến không chồng của Dương Hướng, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường và Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh đã gây được sự chú ý của bạn đọc sau khi trao giải. Ý kiến tranh luận nhiều bởi cả ba cuốn tiểu thuyết đều có nhiều vấn đề phải tranh luận. Riêng Nỗi buồn chiến tranh, sau khi bàn bạc, cân nhắc những ưu điểm và nhược điểm của tiểu thuyết, tôi, với tư cách là một ủy viên Ban Chấp hành cũng đồng ý với nhận định và xếp giải của Ban chung khảo với đa số ý kiến là tiểu thuyết viết về chiến tranh u ám, nặng nề. Tác giả nhìn vào cuộc chiến, nhìn vào số phận những người lính trong chiến tranh bằng con mắt bi quan và không có tương lai.
Thực ra, tôi nghĩ, Bảo Ninh là một người lính, lại mới xuất hiện qua Nỗi buồn chiến tranh nên hy vọng sau đó sẽ viết nhiều và viết khác đi. Còn việc Bảo Ninh phát biểu ở đâu đó, trong hay ngoài nước hoặc ai đó phóng tác vì mục đích gì đó, lại không còn trong sự giới hạn của Nỗi buồn chiến tranh nữa. Và, Bảo Ninh phải tự chịu trách nhiệm về lời nói của mình.
P.V. - Theo chị, xu hướng của các cây bút trẻ trong thời kỳ nở rộ của văn học hiện nay là gì?
N.T.N.T. - Quả thật văn học đang "được mùa". Qua hàng loạt các cuộc thi của các tạp chí, tờ báo, nhà xuất bản khắp trên cả nước, nhiều tác giả được phát hiện, định hình và tạo ra một lớp trẻ, một thế hệ văn học mới. Điều đó thật sự đáng mừng và cần thiết vì nền văn học luôn phát triển. Đặc biệt là các sáng tác của lớp trẻ đã mang nhiều sắc thái khác nhau của sự tìm tòi và khẳng định phong cách. Các bạn trẻ ấy có may mắn sống trong thời bình, cuộc sống ổn định và có điều kiện tiếp nhận nhiều thông tin của thế giới hiện đại và các bạn mổ xẻ cuộc sống cũng như nhân vật bằng con mắt của thế hệ trẻ đó. Nhưng cũng chính sự bung ra đó đã gây ra tình trạng loạn sách bởi một số người coi việc viết văn quá dễ, quá đơn giản nên họ cứ phóng bút để rồi những gì họ ghi ra giấy chẳng tạo ra tác dụng gì và nhanh chóng chìm vào quên lãng.
Tôi nghĩ, để thành một nhà văn dù sống ở đâu, ở thời kỳ nào cũng cần phải có tính nhân bản ngoài cái tài năng có sẵn và không ngừng bồi bổ thêm cho mình tri thức văn hóa. Những con người đó sẽ tồn tại mãi cùng với tác phẩm của mình.
P.V. - Xin cảm ơn Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú.
Nhà thơ Vũ Quần Phương là thành viên của Ban chung khảo Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam. Anh đã không tán thành xếp giải A cho cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Vừa qua, báo Công an thành phố đã phỏng vấn nhà thơ Vũ Quần Phương, Tổng biên tập báo Người Hà Nội về "bối cảnh lịch sử" xung quanh vấn đề này và nhận định của anh - với tư cách là một thành viên của Ban chung khảo Giải thưởng về cuốn Nỗi buồn chiến tranh. Sau đây là nội dung cuộc phỏng vấn.
P.V. - Thưa anh, với tư cách là thành viên của Ban chung khảo, anh có ý kiến thế nào về "bối cảnh lịch sử" lúc ấy và ý kiến cá nhân anh về cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh?
VŨ QUẦN PHƯƠNG - Năm ấy, tôi có tham gia Ban chung khảo Giải thưởng hàng năm của Hội Nhà văn. Thơ chọn được hai tập, văn chọn 3 tiểu thuyết. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh được bàn luận nhiều. Mọi người khen cách viết gọn, câu chuyện lôi cuốn, tốc độ nhanh, bút pháp có nét mới. Tôi cũng thấy thế. Và tôi đề nghị tặng giải B cho anh. Tôi không tán thành xếp giải A vì cuộc chiến tranh Bảo Ninh thể hiện không phải là cuộc chiến tranh ta đã trải qua. Tôi đã sống giai đoạn lịch sử này, tôi thấy cảnh ném bom của Bảo Ninh tả ở ga Thanh Hóa là không có ở thời chống chiến tranh phá hoại. Tôi nhớ một thành viên khác của Ban chung khảo giải thích: "Bảo Ninh không định phản ánh hiện thực, anh suy ngẫm hiện thực". Tôi không tin lập luận ấy vì muốn suy ngẫm đúng thì phải dựa trên dữ kiện đúng. Thứ nữa, tác giả như muốn đứng cao hơn cả hai phía để phán xét cuộc chiến. Với anh, chiến tranh là chiến tranh, không có tính từ nào kèm theo. Đó là bộ máy hủy hoại - đi qua nó cái tốt đẹp bị tiêu diệt, cái còn lại thành thân tàn ma dại không thích hợp với thời bình. Tôi thấy cách nghĩ này e bất nghĩa với người đã hy sinh cho chiến thắng. Họ hy sinh có mục đích, có lý tưởng nhưng trong truyện họ chết tức tưởi như rơi vào tai vạ, chết mà chẳng hiểu vì sao. Nghĩ vậy nên tôi đề nghị: Chưa nên tặng giải cao (để viết bài báo này, tôi đã tới Hội Nhà văn xin Ban sáng tác cho chép lại bản giám định hồi đó của tôi, đồng chí phụ trách chưa tìm được, tòa báo giục, tôi đành viết theo tinh thần). Sau này ở Hội Văn học Hà Nội, chúng tôi có tổ chức tọa đàm về tác phẩm này, một nhà nghiên cứu giải thích cho riêng tôi: Bảo Ninh ra trận ở giai đoạn cuối cuộc chiến, sự trải nghiệm của anh có thể khác lúc tôi đi. Điều đó có thể như vậy. Tôi không đòi hỏi anh nhiều nhưng việc tặng giải cao thì vẫn không nên.
Khi báo Văn nghệ tổ chức hội thảo, tôi có nói cái ý bất nhẫn khi biến sự hy sinh có lý tưởng thành những cái chết tức tưởi vô nghĩa. Một thành viên khác phản bác tôi, cho rằng không thấy những cái chết đó mới là bất nhẫn, là vô ơn. Ý phản bác này không được thấy nói trong cuộc họp. Nhưng khi báo Văn nghệ đăng tường thuật thì có ý này. Tôi đoán chắc nhà văn kia khi về nhà mới thêm vào. Điều đó không sao nhưng ngụy biện. Tôi không có dịp nói lại nhưng tôi chắc rồi mọi người sẽ thấy tính ngụy biện trong lập luận ấy. Không khí đổi mới quá khích hồi ấy thật ra lại mất dân chủ. Có người tự nhận là đổi mới nhưng rất học phiệt, thấy ai có ý kiến khác là "tiêu diệt". Chưa bao giờ tôi thấy tính văn hữu bị tàn phá như lúc ấy. Tự nhiên hình thành hai phe mà thật ra có phe phái nào đâu. Có bạn viết văn trẻ lo lắng khuyên tôi: "Anh không nên có ý kiến, họ đông lắm (!)". Tôi không nghĩ đông đã là chân lý. Nhưng tôi không muốn bị xếp vào phe nào. Tôi yêu bút pháp Bảo Ninh. Vì vậy tôi đề nghị tặng giải, nhưng chỉ tặng giải B.
P.V. - Sau khi được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, cuốn Nỗi buồn chiến tranh đã gây nhiều dư luận tranh cãi và bị phê phán. Anh có ý kiến gì về dư luận đó, nhất là đối với sự đề cao của một số báo chí của người Việt Nam ở nước ngoài?
V.Q.P. - Nỗi buồn chiến tranh sau này được đề cao trong một số báo chí của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Xét kỹ những cộng đồng này phần lớn trong quá khứ dính với bên kia cuộc chiến. Cuốn tiểu thuyết có an ủi và chiêu tuyết cho họ. Họ đề cao cũng là điều dễ hiểu. Điều khó hiểu là sau một thời gian thử thách, có hồi âm từ bạn đọc trong nước, sau cả những nhận định, đánh giá lại của Ban Giám khảo đối với Nỗi buồn chiến tranh, thì tác giả của nó, qua phát biểu đây đó, lại không thể hiện có chuyển biến gì, không thấy cái phần mà nó đã thiếu sót với xương máu đồng bào mình, không thể so với Romac, Romac ở phía chiến bại trong cuộc chiến tranh xâm lược của Hitler, Bảo Ninh ở phía người chiến thắng trong một cuộc chiến tranh cứu nước. Lấy tư tưởng Romac làm chỗ tựa cho mình sẽ rất nhiều sai lệch. Dân ta thắng được Mỹ trong cuộc chiến tranh ác liệt ấy là một kỳ tích. Chiến tranh đã đi qua một phần tư thế kỷ, nhìn lại càng thấy kỳ vĩ. Với tâm lý chiến đấu như Nỗi buồn chiến tranh thể hiện thì không sao có kỳ tích ấy được và tất phải chiến bại như trong các tác phẩm của Romac. Một thời gian dài khi cuộc chiến đang tiếp diễn, chúng ta viết chiến tranh có chiều phiến diện (sự phiến diện cần thiết). Bây giờ đất nước yên hàn, chúng ta có điều kiện thể hiện toàn diện cuộc chiến, cả phần xót xa đắng đót nhất. Viết Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh có thuận lợi ấy nhưng tác phẩm của anh lại phiến diện kiểu khác. Tiểu thuyết của anh thể hiện thiếu một yếu tố nào đó của cuộc chiến mà chính với yếu tố đó đồng bào ta đã lập nên kỳ tích. Với yếu tố đó, Nguyễn Văn Trỗi mới tìm ra một câu để nói với đồng bào trong giây phút cuối cùng: Hãy nhớ lấy lời tôi, yếu tố ấy chúng ta nhận thấy ở chị Út Tịch, Mẹ Suốt và biết bao Bà mẹ Anh hùng ở mọi nơi thôn cùng xóm vắng. Khám phá ra yếu tố ấy, Bảo Ninh viết sẽ sâu hơn, hay hơn.
P.V. - Xin cám ơn nhà thơ Vũ Quần Phương.
P.V. thực hiện
Nguồn: Công an thành phố Hồ Chí Minh, Tp.HCM, (4-10-1995)
(Còn nữa...)