Đinh Thanh Huyền

Chu Hồng Tiến
Một lần, Chu Hồng Tiến bày trò thi làm thơ, tôi bảo rằng tôi chỉ không viết được như Chu Hồng Tiến thôi. Ấy là tôi nói thật bởi đã từng làm thơ, từng có giải thưởng (nhưng thơ không phải niềm đam mê của tôi). Rốt cuộc, tôi vẫn nhận lời thách thức, lập tức trong khoảng 5 phút viết ra một bài thơ hoàn chỉnh và nhận của Tiến tràng cười tán thưởng.
Khoảng nửa năm trước lúc rời bỏ thế gian, Chu Hồng Tiến viết dồn dập. Cảm hứng thơ trở lại thật bất ngờ khiến chính anh cũng phải ngạc nhiên: “Thời gian này, lúc nào trong đầu anh cũng chỉ có thơ”. Và anh viết xuống những tờ giấy cũ, vào cuốn sổ đã lâu không mở ra. Anh nói: “Anh thích viết tay”. Nhìn những dòng chữ cứng cáp, nét chữ đẹp, phóng khoáng của anh, tôi cứ rưng rưng nhớ về cái thời nắn nót viết từng trang bản thảo. Bài gửi đi rồi, có khi được đăng, có khi không, nhưng bản thảo vĩnh viễn không trở lại với mình nữa nên cứ ngậm ngùi tiếc nhớ thế nào ấy (có lẽ khi viết tay, những con chữ nó gần với người viết hơn, thân thương và có hồn hơn). Rồi Tiến chụp những trang viết tay đó gửi cho tôi, cùng với lời nhắn: “Em toàn quyền chỉnh sửa”. Tôi gõ thành văn bản và gửi lại để anh đọc. Có lần anh hỏi: “Sao em hầu như không sửa thơ anh? Em là biên tập viên chuyên nghiệp mà!”. Tôi chỉ cười: “Em thấy không cần sửa. Thơ anh, chữ nào và ở đâu tự có cái lí của nó”. Chu Hồng Tiến rất thích câu ấy, anh nhắc đi nhắc lại bằng giọng cảm động, lần nào cũng thế.
Về Chu Hồng Tiến, tôi tin rằng người với thơ là một. Người nghệ sĩ ấy sống giữa đời cứ thu mình lại, không muốn phô bày bản ngã, lấy sự lặng lẽ làm lối sống, khắt khe với chính mình nhưng cũng kiêu hãnh một cách kín đáo. Thơ anh cũng thế, cái tôi thi sĩ không cất tiếng ồn ào, thậm chí bị làm “mờ” đi. Vì sao vậy? Vì cảm xúc trong thơ Chu Hồng Tiến là cảm xúc đã được được nhận thức, chứ không phải dòng cảm xúc thô đang tràn lấp. Nhiều người tưởng mình viết hay khi “đang đau”, nhưng thực chất đó là sự giải tỏa, không phải sáng tạo. Cơn bão cảm xúc trong lòng không tạo thành thơ, chỉ khi cảm xúc trở thành đối tượng quán sát, thơ mới nảy sinh. Bởi thế, cái tôi thi sĩ không được cản trở cái tâm rỗng và sáng, chỉ “nhìn” mà không phán xét, không ép buộc cảm xúc. Viết như thế rất gần với thiền. Nhiều lần, Chu Hồng Tiến mô tả trạng thái viết giống như một khoảnh khắc “ngộ” rất ngắn nhưng cực kì rõ rệt. Khi ấy, câu thơ tự đến, mạch thơ lưu thông, từ ngữ xuất hiện như tất yếu, kể cả những chữ rất lạ:
Anh trôi vào chiều tháng Chín của em
Chiếc bình gốm dậy muộn giấc chiều
Loài hoa không tên thèm đêm...
Tiếng ghi ta buồn dịu
Bài hát có tiếng suối và tiếng thác
Anh tan vào đêm
Tháng Chín của em
Người nào gồm nhặt sương trên cỏ
Trăng hạ huyền
Lếch thếch
(Hạ huyền).
Khi cảm xúc đã được “nhìn” thấy, không còn ầm ầm kéo lên trong tâm, thơ viết ra rất cô đọng, kiệm lời, nhiều khoảng lặng:
Anh đến với em từ cơn bão trái mùa
hoa xoan rụng, hoa loa kèn cất tiếng
Phúc phận anh có em
Em như Cô Tiên, khi anh ngã xuống
Bảo thứ anh nhận về
Bảo việc em tha thương
Anh vào chuyến bay, cơn ngã cuối cùng, anh thấy bãi cỏ màu đỏ
Mẹ gọi anh cái tên ngày bé
Em gọi anh cái tên bây giờ...
Cỏ khóc, và anh khóc
Tháng ngày bận rộn
Mình đi qua
(Đây Tản Lĩnh).
Chu Hồng Tiến sở hữu một cảm giác ngôn ngữ vô cùng nhạy, vừa khác thường vừa tự nhiên, không thấy dấu hiệu của dụng công mà là dòng chảy sống liền mạch với cảm xúc. Chữ trong thơ anh lạ mà vẫn quen, phi logic mà vẫn đúng, nửa hồn nhiên, nửa tinh luyện, không giống ai nhưng không cố tỏ ra khác, là cảm giác mà kĩ thuật thuần túy khó bù đắp.
Đây mười tám
Đây đôi mươi
Ngôi nhà mình màu xanh
Em vào ra mang xanh
Em mang xanh đi đó đây
Anh chờ em phía xanh
Không bóng người, mình nói cười rất chậm
Giấc ngủ của anh chập chờn, đôi mắt xanh của em
Tiếng côn trùng hiền dịu
(Thanh tân).
Thơ Chu Hồng Tiến không tuổi bởi có một “độ mềm cảm xúc” hiếm thấy. Khó tưởng tượng được một tiếng thơ dịu, trong như thế ở một người đàn ông đã ngoài sáu mươi tuổi. Không có những đau đáu, nghiền ngẫm, đay đả, triết lí thường thấy ở những người đàn ông trải đời, thơ Tiến vượt qua để đến được cái nhìn thấu suốt, không quá dính mắc vào sự thực. Kiếp người vui ít buồn nhiều, ai chẳng thế. Có người mang vào thơ lời kể lể thở than não nuột, có người vui buồn yêu giận gì cũng đẩy lên thành cực độ, có người mang cả dòng dung nham cảm xúc nóng chảy cuồn cuộn vào thơ, có người thơ là một bầu trời trong sáng không mây như Chu Hồng Tiến.
Có cuộc gọi lúc không giờ
Vu vơ như mưa đêm
Danh tính chìm trong khoảng trống
(Lúc không giờ)
Tháng ngày chập chờn
Hình như em đi
Ngôi nhà bên bé dại
Hình như em ở
Cánh cửa mở hờ
(Chập chờn)
Đấy Tản Lĩnh đưa mình đến chân mây
Em đi trong sương mai, anh vùi trong cơn mưa đêm qua
Anh giấu em và sương con mắt buồn như thể...
Như thể tiếng hát cuối cùng của một loài chim hay hát, của người đàn ông ít mỉm cười
(Đây Tản Lĩnh).
Trong 29 bài thơ cuối đời, Tiến viết nhiều về tình yêu. Đó là một tình yêu không sở hữu nhưng rất thiêng liêng với anh. Tình yêu ấy đánh thức sinh lực sáng tạo ở người nghệ sĩ:
Em đánh thức trong anh
Một từ, một nghĩa
Nơi cơn đau
Một đêm trắng
Em vắng trong anh một ngày dài
(Đánh thức).
Tình yêu ấy trầm tĩnh, có lúc như buông tay và nhiều khi lùi lại quan sát người mình thương:
Em bay lên
Và em rụng xuống
Anh thẫn thờ
Với bài thơ muốn đọc
Có tiếng chim dại
Gọi nắng
Lúc nửa đêm
(Một giọt dài)
như một diễn xuất bước ra sân khấu
nàng nhẹ gót ra từ nhà tắm
lấm chấm trên ngực giọt nước long lanh
nàng sửa soạn cho cuộc giường chiếu
người đàn ông đợi nàng
ngủ vùi sấp mặt xuống gối
tiếng thở hun hút
nàng lần lữa và tìm một ý nghĩ khác
ly cà phê đêm đắng dài hơn tiếng thở
nàng mơ
hun hút…
(Nuốt đêm).
Thơ Chu Hồng Tiến là một thế giới kí ức tan vào hiện tại, dường như không chỉ thơ mà chính con người anh được làm bằng nguyên liệu của kí ức. Anh viết không phải bằng sự nhớ lại mà là sự lan ra của những vòng sóng hồi ức. Thơ, kì thực là tiếng của kí ức, một âm thanh, một cảnh sắc, một xúc cảm khi lọt vào tâm trí người viết đều là cái đã kết thúc. Khi nhà thơ viết, anh không nắm bắt “cái đang xảy ra” trong nghĩa tuyệt đối. Bởi vì ngay khoảnh khắc anh tri nhận, hình ảnh đó đã trở thành quá khứ, ngay khoảnh khắc anh diễn đạt, cảm xúc đó đã biến dạng. Do đó, cái gọi là “hiện thực trong thơ” chỉ có thể là hiện thực đã được nhớ lại, cảm xúc cũng là cái được tâm thức tái tạo trong khoảnh khắc tiếp theo. Hồi quang kỉ niệm về cha, mẹ, quê nhà rất sâu dày hay một thoáng đời rất mỏng đến và ở lại trong thơ Tiến đều là những mảnh kí ức khởi lên và vụt tắt trong khoảnh khắc:
Những buổi cuối chiều cha thường ngắt hoa từ cánh đồng
Những bông hoa nở bên bờ ruộng
Trắng xuyến chi
Vàng cúc dại…
Con đường về nhà nhiều nắng gió gập ghềnh
Cha phong phanh
Bó hoa trộn hương cỏ mùi bùn
(Về cha)
mẹ nằm đấy
con ngồi đây
trăng chiều trôi qua khung cửa
con giấu mẹ tiếng nấc
lời như ru, sao con buồn lâu thế
chiều buông bổng
mẹ và con
(Người mẹ)
Có lần ta thong thả mơ
những gương mặt một thời lớ ngớ
Chúng ta chìm vào nhau tắm thác
rồi tách ra làm đá sỏi
(Đường phố).
Những điều nói trên đây không phải riêng có ở thơ Chu Hồng Tiến. Nhưng thơ anh độc đáo bởi được viết từ sự hòa trộn giữa tư duy thơ và tư duy hội họa. Mọi bài thơ của anh đều được tổ chức như khung hình mĩ thuật: tĩnh, chuyển động (nếu có) thì rất nhẹ, một góc phòng, một dáng người ngoài cửa, một buổi mưa trong suốt, một thảm cỏ chập chờn rất hội họa. Bởi thế, thơ Chu Hồng Tiến tối giản. Một bài thơ có thể chỉ là vài hình ảnh, nhưng sắc nét đến mức cảm xúc bùng lên từ khoảng trống giữa chúng. Trong hội họa, người ta không chỉ nhìn cái được vẽ mà còn nhìn cái không được vẽ. Cái không vẽ định biên và làm nổi bật cái được vẽ giống như sự im lặng làm nổi bật tiếng đàn, giống như những liên tưởng bất tận trỗi lên từ khoảng im lặng trong thơ. Nhưng tính tối giản trong thơ Chu Hồng Tiến được biểu đạt bằng ngôn ngữ thị giác rất mạnh. Đó là lớp từ ngữ mang cảm giác xúc chạm “ướt”, “lạnh”, “mềm”, “nhão”; là tư duy chất liệu khi cảm xúc trở thành một sắc độ: Dựng ở bìa rừng/ Hotel Lục Lam sơn màu hoàng thổ/ hun hút gió/ Hotel đung đưa như chiếc đèn lồng/ Anh nhận phòng lúc mười chín giờ/ Bây giờ nhà mình đang vào bữa tối/ Anh đứng ở lan can/Anh ngồi bên cửa sổ/Anh nằm trên chiếc giường cá nhân trắng toát, chăn gối (Đêm Hotel). Hình ảnh được dùng như mảng màu hơn là biểu tượng: “xanh rêu”, “mưa từ vai gáy”, “ban mai chập chờn”, “bãi cỏ màu đỏ”, “Hotel Lục Lam sơn màu hoàng thổ”, “ Hàng dương bối rối ánh vàng hào phóng”. Có lúc, hình ảnh được đặt cạnh nhau để tạo bố cục ánh sáng - sắc độ - điểm nhìn: Em đánh thức tấm toan trắng/ Ngủ dài/ Có tiếng khóc nấc/ Và nụ cười thầm/ Một nét một màu. Những chi tiết thân thể như ánh sáng trên da, giọt nước trên ngực, hơi thở hun hút, bàn tay ướt,… không biểu đạt ý niệm mà là bề mặt - chất liệu phản quang. Từ đó, dù là những câu thơ gợi cảm nhất cũng không gợi ham muốn mà chỉ đánh thức một rung động thanh thuần ở người đọc: Không áo quần/ Em - tấm drap trắng muốt/ Em bay lên/ Và em rụng xuống/ Anh thẫn thờ/ Với bài thơ muốn đọc/ Có tiếng chim dại/ Gọi nắng/ Lúc nửa đêm/ Lạc giọng/ Em bay lên và không rụng xuống.
Không gian trong thơ Chu Hồng Tiến được dựng bằng ngôn ngữ tạo hình rõ rệt. Có những bài mở ra một cảnh mờ: Lối này gió/ Lối này mưa/ Anh chọn lối dài giông gió/ Để đến em nhanh nhất (Đêm ngã ba), Lúc không giờ ấy, mưa từ núi và sương/Cơn mưa từ mắt môi, từ vai gáy... (Lúc không giờ), đêm nuốt đêm/ đêm chập chờn/ ô cửa mở/ kìa ban mai (Nuốt đêm). Có những bài đặt một chi tiết làm điểm nhấn trong bố cục: nàng nhẹ gót ra từ nhà tắm/ lấm chấm trên ngực giọt nước long lanh (Nuốt đêm), Chiếc bình gốm dậy muộn giấc chiều/ Loài hoa không tên thèm đêm... (hạ huyền), Gần cha rồi/ Con pha trà và cha ngồi đó/ Có tiếng loài chim dậy sớm/ bài ca nâu sồng/ Nhà chật ko còn chỗ cha ngồi/ lúc ba giờ cha thức dậy… (Hồi tưởng). Nhiều bài thơ kéo lùi nền bằng những hình ảnh nhạt: Núi Tản Viên xanh lam/ Đồng cỏ Yên Hòa như ngọc/ Chông chênh Đá Chông những bờ nước lúp xúp ngút cỏ (Tĩnh), Mình nhấn và nắm tay nhau/ thành tiếng/ Ban mai, ban trưa, buổi chiều (Đánh thức), Qua ngõ giờ Ngọ/ Tôi đi dọc giấc trưa/ Ngõ vừa lối đi đôi/ Người đi nghiêng vai/ Âm thanh thẳng đứng/ Bầu trời gẫy khúc trên những mái nhà nhấp nhô (Ngõ tầm xuân).
Khi tư duy hội họa xuyên thấm vào ngôn ngữ, không gian thơ có độ mờ - loang - nhập giống kĩ thuật làm mềm biên giới hình trong tranh Ấn tượng: “mưa tan vào tóc”, “đêm tan vào vai”, “anh tan vào đêm”, “anh trôi vào chiều tháng Chín”, “sương gồm nhặt trên cỏ”. Thơ tạo chiều sâu không gian bằng độ tương phản màu hoặc hình: Tôi thùng thình đi mê phố xá/ Người chót thức đi dọc/ bất ngờ gặp bóng con mèo chạy ngang/ Những con mèo ngủ ngày trong góc tối của căn nhà chật chội (Đường Thụy Khuê), Tôi và em/ Có nhiều khoảng cách trong tưởng tượng/ Cách xa một đường bay/ Một cọng cỏ (Khoảng cách), Mấy lần đưa lên/ Mấy lần đặt xuống/ Cúc vẫn vàng và tay em nghiêng (Một chiều cuối thu), Đại ngàn xanh rêu/ Bóng cổ thụ chập chờn giấc ngủ/ Rền rĩ loài côn trùng giấu mặt/ Mình chìm vào tiếng hót xanh rêu của con chim với lượt bay cuối cùng (Đây Tản Lĩnh).
Nhịp điệu ngôn ngữ thơ Chu Hồng Tiến giống chuyển động của các nét cọ. Có những nét cọ ngắn, vỡ, sáng - tối xen kẽ để khiến cảnh vật như đang “sống”, đang “thở”, đang “rung”: Vô danh/ Vô danh dàn đồng ca vòm lá/ Em về con đường lạ/ Ngày xưa ai thương áo xanh/ Em xin… (Ngày hạ); có những nét cọ vút thẳng, mạnh: Qua ngõ giờ Ngọ/ Tôi đi dọc giấc trưa/ Ngõ vừa lối đi đôi/ Người đi nghiêng vai/ Âm thanh thẳng đứng/ Bầu trời gẫy khúc trên những mái nhà nhấp nhô (Ngõ tầm xuân); có những nét cọ mềm, xoáy, run rẩy: Bài hát như ru/ mưa ban ngày và nắng qua đêm/ anh chìm trong những người tình của em/ Anh như con dế buồn bỏ vườn ra cánh đồng (Tĩnh).
Chu Hồng Tiến là một nhà thơ từ trong cốt tủy và là một họa sĩ tài năng, sự quyện hòa của hai năng lực đặc biệt ấy tạo nên một lối thơ độc đáo, tiếc rằng tháng ngày ở trọ trần gian của anh quá ngắn. Nhưng chỉ với 29 bài thơ cuối, tôi tin Chu Hồng Tiến đã đặt vào thơ một “dấu vân tay” không thể trộn lẫn. Một lối thơ đậm chất Ấn tượng.
Trong số những bài thơ chợt đến với anh những ngày cuối đời, có một bài khiến tôi lạnh người mỗi khi đọc lại:
Qua
Mặt trời đi qua mặt trời
Mặt người đi ngang mặt người
Đèn đẩy đêm
Vào đêm
Đêm mọc cánh
bay lên
Thân xác cọt kẹt
Mây trốn đêm
Rơi xuống như lá gầy
Như thể người ấy chợt nhận thấy có những thế giới song song, nơi mặt trời này, đi ngang qua mặt trời khác, mặt người này lướt qua mặt người khác. Một ảnh tượng mơ hồ mà hiện hữu dường như chỉ hiện ra cho người được chỉ định. Những hình ảnh cứ chồng lên nhau, đêm hút sâu vào đêm, mọi vật bị hút vào đêm, đêm lùi xa tận biên tế tối sơ của cõi sống. Người ấy cũng lùi xa, thật xa để cảm nhận xác thân mình tàn hoại, để biết nó sẽ rơi xuống như lá gầy. Bài thơ này dường như là linh cảm của Chu Hồng Tiến về cái chết. Hành trình sống của chúng ta cũng là hành trình đi đến cái chết, nhưng dường như ít ai có khả năng bình thản nhìn vào đấy, bình thản chấp nhận nó và bình thản lãng quên. 29 bài thơ cuối của anh, 29 bài thơ còn ấm tay người, 29 bài thơ chưa bước vào cuộc lữ là những gì anh để lại. Nghĩ về Chu Hồng Tiến, về thơ anh, tôi không tránh khỏi ngậm ngùi bởi thơ gợi nhớ thật nhiều về một con người đã sống bình lặng, viết và yêu cuộc đời thật nhẹ nhõm
Hà Nội, ngày 12/12/2025