Tác giả: Magyar Bálint – Madlovics Bálint
Bản tiếng Việt: Nguyễn Quang A
Nhà xuất bản Dân Khí – 2025
Nói cách khác, sự nổi lên của các nhà nước mafia tiểu-vương và các mạng lưới bảo trợ phi-chính thức là một vấn
đề cho ban lãnh đạo chó bu của đảng không đơn giản bởi vì công quỹ bị lạm
dụng. Các lãnh đạo của chế độ cũng
phải nhớ bức tranh lớn hơn, mà là xu hướng “mafia hóa” của đảng nhà nước.
Các mạng lưới bảo trợ phi-chính thức, cho dù chúng bắt đầu ở mức chính quyền địa
phương, có thể phát triển và bắt giữ nhiều phần hơn của đảng nhà nước khi các
nhà bảo trợ chóp bu (địa phương) ngày càng lên cao hơn trong hệ thứ bậc đảng
nhà nước. Ảnh hưởng tăng lên của các mạng lưới bảo trợ có nghĩa rằng quyền lực
đang từ từ “bị lấy ra” khỏi các mạng lưới chính thức của đảng nhà nước và chuyển
vào các giới phi-chính thức, mang rủi ro về cuối cùng sẽ biến đảng nhà nước thành
một đảng dây curoa.
Xu hướng mafia hóa là
một mối đe dọa trực tiếp đối với
đảng nhà nước; không ngạc nhiên các học giả Trung quốc cho rằng ban lãnh
đạo đảng coi sự kiềm chế tham nhũng ở Trung
Quốc như một vấn đề sống và chết cho đảng. Tuy vậy,
trong khi mối đe dọa về tham nhũng phá hủy hệ thống một
phần được làm cho có thể bởi sự thiếu cạnh tranh đảng, chính cùng nhân tố này giải
thích vì sao hiện tượng có thể được kiềm chế, và vì sao toàn bộ nền kinh tế có
thể không trở thành một nền kinh tế quan hệ.
Trong các nước hậu-cộng sản nơi các định chế dân chủ và các hệ thống đa-đảng được thiết lập chính thức, các mạng lưới bảo trợ phi-chính thức có thể khởi động các đảng của nhà bảo trợ tự trị và tự do bước vào sự cạnh tranh đảng, dùng các đảng như giao diện tới lĩnh vực hoạt động chính trị. Trong các chế độ độc tài khai thác-thị trường, những người hình thành các mạng lưới bảo trợ là các đảng viên nhà nước, như thế nhà nước có thể phạt một mạng lưới bảo trợ phi-chính thức như một sự vi phạm kỷ luật đảng. Có độc quyền rồi về quyền lực chính trị, ban lãnh đạo chóp bu của một chế độ độc tài khai thác thị trường có thể dùng sự thực thi pháp luật mức quốc gia để thử đàn áp thẳng tay các thị trường quan hệ.
92. Các định chế chính thức CỦA đảng nhà nước TRUNG QUỐC ở dưới một áp lực ba bên của tính phi-chính thức của các hình thức tham nhũng Tây phương, các hình thức tham nhũng hậu-cộng sản, và guanxi (quan hệ). Tham nhũng ở Trung Quốc ngay sau những cải cách đã không bắt đầu dẫn đến xu hướng mafia hóa ngay lập tức. Cái ban đầu có thể được xem như sự xuất hiện của các hình thức tự nguyện của tham nhũng, như tham nhũng thị trường-tự do và chủ nghĩa thân hữu, mà vẫn hiện diện ở Trung Quốc cho đến ngày nay. Tham nhũng, mà đã tồn tại bên trong mạng lưới đảng nhà nước, đã mở rộng và lấy những hình thức mới khi một nền kinh tế tư nhân được xác lập. Như Sebastian Heilmann giải thích trong Hệ thống Chính trị của Trung Quốc (2016), “nhà nước Trung quốc đã trở thành một sàn giao dịch lậu khổng lồ: các giám đốc công ty, các bí thư đảng, và những người đứng đầu có thẩm quyền đã chuyển hướng các tư liệu sản xuất và hoạt động từ khu vực kinh tế nhà nước để cung cấp cho các thị trường mới được tạo ra; các vị trí chính trị hàng đầu và những sự phê duyệt chính thức được trao đổi cho phần lợi nhuận trong các giao dịch tư nhân béo bở […]. Những người nắm quyền lực to và nhỏ ở mọi mức của đảng […] đã làm giàu bản thân mình bằng việc tận dụng các cơ hội do thị trường và trật tự hợp pháp vẫn chưa hoàn hảo cung cấp” (228–29).
Những kiểu tham nhũng có thể được coi như các hình thức Tây phương, không theo nghĩa rằng chúng không xuất hiện trong các nước hậu-cộng sản, mà bởi vì địa vị đạo đức của chúng. Các hình thức tham nhũng như vậy là các giao dịch phi-cá nhân, giống kinh doanh, và với tư cách như vậy, chúng là bất hợp pháp và không được chấp nhận về mặt đạo đức. Ngược lại, các hình thức bảo trợ của tham nhũng trong các chế độ hậu-cộng sản cũng là bất hợp pháp nhưng có được sự chấp nhận đạo đức hơn vì chúng là việc ăn cắp không phải cho cá nhân mà cho thị tộc (bè đảng)—đặc biệt trong các vùng lịch sử nơi sự tách biệt của các lĩnh vực hoạt động xã hội còn thô sơ (Mệnh đề 7).
Tại Trung Quốc, cả tham nhũng giống-kinh doanh và các kiểu tham nhũng bảo trợ đều phổ biến, đặt hai tầng áp lực của tính phi-chính thức lên đảng nhà nước (Bảng 31). Tầng thứ ba xuất phát từ công cụ xã hội cổ xưa của guanxi. Từ có nghĩa đen là “quan hệ” hay “mối quan hệ,” nhưng nó nhiều hơn thế rất nhiều: nó là một cặp mối quan hệ trao đổi xã hội, phi-chính thức, một hình thức có đi có lại nơi mọi người tích lũy vốn xã hội qua sự tương trợ. Vốn xã hội này có thể được dùng để “khiến mọi thứ được làm,” có được sự tiếp cận đến các nguồn lực hay các cơ hội nhờ sự ưu ái cá nhân; theo nghĩa này, guanxi là một hình thức tham nhũng. Nhưng đạo đức học Tây phương liên quan đến tham nhũng là vô nghĩa trong khung cảnh này. Các giao dịch bất hợp pháp của guanxi không bị lên án về đạo đức, cũng chẳng được đơn giản chấp nhận: chúng có nghĩa là một nghĩa vụ đạo đức.
Bảng 31: Những căng thẳng giữa các quy tắc chính thức và phi-chính thức trong chính trị
Trung quốc (từ China’s Political System của
Sebastian Heilmann).
Các quy tắc hính thức |
Các quy tắc phi-chính
thức phổ biến |
Hệ
thống tuyển mộ cán bộ được chính thức hóa |
Các
mạng lưới bảo trợ đảng và sự bán các chức vụ chính trị |
Hệ thứ bậc quan
liêu và sự thiết lập các quy tắc phổ quát |
Vận động hành lang
trong nước và quy định kinh tế dựa vào bảo trợ |
Các quyền tài sản
nhà nước |
Tư nhân hóa phi-chính
thức và sự bòn rút không được kiểm soát của các tài sản nhà nước |
Bình đẳng trước luật |
Thao
túng hệ thống tư pháp để làm lợi cho các quan chức đảng và họ hàng của họ |
Hệ thống tài khóa với
những sự phân bổ thu nhập (thuế) ràng buộc |
Thu nhập thuế bị các
chính quyền địa phương giữ lại và thương lượng tiếp tục về sự phân chia thu
nhập thuế |
Hệ thống guanxi đã
phát triển, dưới chế độ độc tài Mao Trạch Đông, từ các mạng lưới liên kết-mạnh
tồn tại-trước như gia đình và tình bạn giúp đỡ lẫn nhau, và đã là một phần quan
trọng của đời sống Trung quốc hàng ngày kể từ đó. Giống hệ thống blat ở Liên Xô, tạo ra một nền kinh tế làm ơn phi-chính thức rộng khắp-dân
cư giữa những nút thắt cổ chai của nền kinh tế kế hoạch, được thay thế bằng các
hình thức ít dân chủ và “bình quân” của tham
nhũng bảo trợ sau sự thay đổi chế độ. Nhưng sự thực rằng sự thay đổi từ
nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường ở Trung Quốc đã là một quá
trình từ từ, bắt đầu trong cuối các năm 1970, đã đóng góp cho tính liên tục của các tiêu chuẩn xã hội giữa thời cộng
sản và thời hậu-cộng sản.
Xã hội nhóm bảo trợ và sự ổn
định xã hội của
nền Chuyên quyền bảo trợ
Thế giới dân chủ, mà hoạt động trên cơ sở của các liên kết cá nhân yếu (weak ties) trong điện thờ thiêng liêng của các đảm bảo thể chế, bị thay thế, khi các đảm bảo thể chế thất bại, bằng một thế giới dựa vào một ít liên kết mạnh: các mối quan hệ phi-cá nhân, chuẩn tắc và hợp pháp bị thay thế bằng các các mối quan hệ cá nhân với những sự thưởng và phạt tùy ý.
Trong bài báo nổi tiếng “The Strength of Weak Ties (Sức mạnh của các Liên kết Yếu)” (1973), nhà xã hội học Mark Granovetter cho rằng sự tìm việc làm được giúp đỡ tốt hơn bởi các liên kết yếu, mang thông tin từ những người mà chúng ta chỉ biết ít, hơn là bởi các liên kết mạnh như gia đình hay tình bạn thân thiết, mà có thể là những người chúng ta biết kỹ hơn nhưng họ cũng thường xuyên là cùng giới xã hội và vì thế có cùng thông tin như chúng ta có. Quả thực, lập luận này giả định trước sự tách biệt của các lĩnh vực hoạt động xã hội: rằng cho dù có một liên kết xã hội giữa các diễn viên thuộc các lĩnh vực khác nhau, liên kết đó có thể mang chỉ thông tin nhưng không phải ảnh hưởng. Vì nếu ảnh hưởng bước vào bức tranh, ví dụ nếu một người tìm việc làm (tức là, một diễn viên thuộc lĩnh vực kinh tế) dùng các liên kết gia đình của họ (tức là, các mối quan hệ từ lĩnh vực cộng đồng) để có được việc làm, thì các liên kết yếu mang-thông tin giảm giá trị đối diện với các liên kết-mạnh mang-ảnh hưởng.
Trong các chế độ bảo trợ, nơi sự kiểm soát các nguồn lực được tập trung vào tay của các mạng lưới bảo trợ phi-chính thức, sự tiếp cận đến các nguồn lực này phụ thuộc vào các liên kết mạnh, bảo trợ của người ta. Dưới hoàn cảnh như vậy, sự phát triển của các mạng lưới xã hội chuyển từ các mạng lưới không tỷ lệ (scale-free), hay các hình mẫu “người giàu-trở nên giàu hơn,” sang các mạng lưới không-không tỷ lệ, hay các hình mẫu “kẻ thắng ăn cả,” để dùng các thành ngữ của nhà khoa học mạng Barabási Albert-László (Bảng 32). Trong cuốn sách Linked (2002) của ông, Barabási phân tích các nền dân chủ tự do, mô tả nguyên tắc sự gắn được ưu tiên, nơi những người riêng lẻ chắc có khả năng hơn để kết nối với các nút có nhiều liên kết. Trong các xã hội của các chế độ bảo trợ, sự gắn được ưu tiên không dựa vào số các liên kết mà vào tầm của các nguồn lực bị chiếm đoạt. Trong các hệ thống mở, cạnh tranh, các trung tâm mới trong mạng có thể xuất hiện trên cơ sở của sự thích hợp thị trường, nếu mọi người chọn hình thành các liên kết với chúng hơn là với mối quan hệ cũ của họ (tự do rời đi). Trong một nền chuyên quyền bảo trợ, sự thích hợp thị trường bị sự thích hợp quyền lực đánh bại: có một trung tâm ngăn cản sự hình thành của các trung tâm mới, độc lập, và với nó là không thể để chia tay bất cứ lúc nào khi thấy một sự chào mời (trung tâm mới) tốt hơn (không sự tự do rời đi nào).
Bảng 32: Các mạng lưới phát triển tự do (trong nền kinh tế tiếp cận mở (open access)/thị trường) và dưới sự ép buộc (trong nền kinh tế tiếp cận hạn chế/chỉ huy hoặc quan hệ).
|
Tăng trưởng |
Sự gắn ưu tiên |
Sự thích hợp |
Hình mẫu mạng |
Tiếp
cận mở:
tham gia và rời đi tự do (nền kinh tế thị trường) |
|
Thị trường |
Quyết định tự nguyện |
|
|
|
Chọn tự nguyện trung tâm mới bởi sự thích hợp thị trường |
|
|
|
Mạng
tiến hóa |
|
|
|
Tiếp
cận hạn chế:
tham gia và rời đi không tự do (nền kinh tế chỉ huy hoặc quan hệ) |
|
Chọn để kết nối theo tầm của các nguồn lực bị chiếm đoạt |
|
|
|
Bảo trợ |
Ép buộc |
|
94. SỰ PHÂN TẦNG XÃ HỘI TRONG CÁC CHẾ ĐỘ BẢO TRỢ theo logic bảo trợ, hơn là giai cấp, đẳng cấp, hay phong kiến. “Nhóm bảo trợ (clientage)” có nghĩa không đơn thuần là mối quan hệ nhà bảo trợ-người được bảo trợ (patron-client) mà là một kiểu cơ bản của nhóm xã hội mà có thể được dùng để phân tích hệ thứ bậc xã hội của nền chuyên quyền bảo trợ (Bảng 33). Thông thường, khi thấy các mức thấp của sự di động xã hội, người ta bị cám dỗ để dùng các tương tự lịch sử của “các đẳng cấp (caste)” và “đẳng cấp (order)” phong kiến, hay để nói về một cấu trúc “giai cấp” bị đóng băng, dùng ngôn ngữ xã hội học dòng chính.
Nhưng một “caste” nhắc đến một đơn vị xã hội được chính thức hóa,
thường được tôn giáo chính danh hóa và được đặc trưng bởi sự truyền thừa của một
phong cách sống (thường là nghề nghiệp). Các quyết định về sự thuộc về một caste không phụ thuộc vào quyết định tùy tiện của một
thành viên của một đẳng cấp cao hơn: người ta không thể bị tước đoạt địa
vị đẳng cấp của họ, cũng chẳng thể được nhận vào một đảng cấp cao hơn dựa vào lòng
trung thành và quyết định tùy ý. Tương tự, các đẳng cấp (order) phong kiến hay “các
estate” là các đặc quyền elite được xác định về mặt pháp lý, trong khi một quân
vương có thể tước đoạt tài sản và quyền tự do của ai đó, nhưng không thể tước
đoạt địa vị của họ (Mệnh đề 32).
“Các giai cấp” trong các xã hội hiện đại là các nhóm không-được
chính thức hóa, hệt như các nhóm bảo trợ, nhưng chúng ra đời bởi các động lực phi-cá
nhân của chủ nghĩa tư bản (Mệnh đề 33). Tư cách thành viên giai cấp được xác
định bởi quan hệ của người ta với tài sản sản xuất; ngược lại, tư cách thành
viên nhóm bảo trợ được xác định bởi quan hệ của người ta với elite cai trị, đặc
biệt sự phụ thuộc của họ vào các nguồn lực của gia tộc chính trị nhận con nuôi.
Các ranh giới của một nhóm bảo trợ có thể được vẽ ra bởi sự phụ thuộc được tạo
ra và được duy trì thế nào: liệu nó được tiến hành qua các việc làm (có lẽ theo
những cách khác nhau trong các khu vực khác nhau), qua tính dễ bị tổn thương của
hoạt động doanh nhân, qua các trợ cấp nhà nước tùy ý v.v. Trong một nền
chuyên quyền bảo trợ, gia tộc chính trị nhận con nuôi có thể từ chối sự
tiếp cận đến các nguồn lực này theo một cách tùy ý, trong khi cũng vẫn để cho một
người không có lựa chọn thay thế thêm nào. Như
thế, gia tộc chính trị nhận
con nuôi có thể đưa ra các mối đe dọa sống còn đáng tin cậy, và địa vị nhóm bảo
trợ là có thể bị tước đoạt.
Chúng ta có thể sử dụng ẩn dụ về sự làm nghẹt thở, đặc biệt theo nghĩa rằng, khi tay của kẻ tấn công quấn quanh cổ của đối thủ, kẻ tấn công không nhất thiết giết đối thủ nhưng cản anh ta khỏi sự di chuyển và kiểm soát anh ta có thể thở bao nhiêu. Trong một xã hội nhóm bảo trợ, điều này tương ứng với sự loại bỏ khả năng hành động tự trị. Nếu người ta không di chuyển, tức là, hành động theo một cách phù hợp với hoặc không quấy rầy các mục tiêu của gia tộc chính trị nhận con nuôi, họ có thể chẳng bao giờ thực sự bị nhắm mục tiêu, và có thể sống mà không bị các trừng phạt tùy ý. Nhưng thực ra, cánh tay luôn luôn quanh cổ họ, và nếu họ thử, dưới ảo tưởng không có sự đàn áp, để di chuyển tự chủ như họ thích, cú siết đột nhiên thiết chặt và sự đàn áp có xuất hiện.
Bản chất của một sự làm nghẹt thở là thế này: việc giữ diễn viên hay định chế ở xa bằng việc duy trì khung khổ thường xuyên của khả năng đàn áp. Trong khi sự thiếu khủng bố rõ ràng có thể dẫn một nhà quan sát hời hợt để kết luận rằng chế độ đó quả thực là tự do và dân chủ, sự tạo ra các chuỗi phụ thuộc rộng khắp-xã hội có nghĩa rằng ngay cả quanh cổ của các diễn viên có vẻ tự do luôn có cánh tay của các nhà bảo trợ—hiện thời, giữ ít chặt hơn—của gia tộc chính trị nhận con nuôi.
Bảng 33: Kiểu của các nhóm xã hội trong các trật tự xã hội khác nhau.
|
Kiểu
trật tự xã hội |
Tính chính thức của chức vụ |
Cơ
hội của sự di động hướng lên |
Sự
có thể bị tước của địa vị |
Caste |
sự tiếp cận hạn chế |
được chính thức hóa |
thấp |
không |
Đẳng cấp |
sự tiếp cận hạn chế |
được chính thức hóa |
vừa phải |
không |
Giai cấp |
sự tiếp cận mở |
không-được chính thức hóa |
vừa phải/cao |
không |
Nhóm bảo trợ |
sự tiếp cận hạn chế |
không-được chính thức hóa |
thấp/vừa phải |
có |
95. CÁC NHÓM BẢO TRỢ HẠ, TRUNG VÀ THƯỢNG LƯU, có thể được phân biệt thay cho các giai cấp khi nói về các tầng của một xã hội nhóm bảo trợ. Trong khi là quen thuộc để nói về “tầng lớp trung lưu” hay “tầng lớp thượng lưu” trong một nền dân chủ tự do, sự phân tầng xã hội có thể được hiểu tốt hơn bằng việc nói về các nhóm bảo trợ (clientage) trung, hạ, và thượng lưu trong một xã hội nhóm bảo trợ.
Các nhóm bảo trợ thượng lưu gồm các nhà tài phiệt, những kẻ bù nhìn, cũng như các thành viên hành chính công có thu nhập cao. Trong một nền chuyên quyền bảo trợ, hầu như tất cả mọi người ở trên đỉnh của hệ thứ bậc xã hội được kết nối với mạng lưới bảo trợ có chỉ một-kim tự tháp. Điều này được phản ánh gần đúng trong danh sách của “những người có ảnh hưởng nhất,” được công bố hàng năm trong nhiều nước hậu-cộng sản. Các danh sách của những người có ảnh hưởng nhất được chuẩn bị trong các xã hội
đa nguyên có cơ sở trong sự tách biệt của các quyền lực sẽ không
gồm những người trong mối quan hệ thứ bậc của sự cao hơn và và sự thấp hơn với
nhau, mà là các cá nhân tự trị trong không mối quan hệ phụ thuộc nào (từ các
chính trị gia đến các doanh nhân, các nhân vật media đến các giáo sư đại học). Ngược
lại, một đa số dứt khoát của những người tạo thành danh sách trong các chế độ chuyên
quyền bảo trợ có thể nhờ sự từ tâm của nhà bảo trợ chóp bu cho các vị trí có ảnh
hưởng của họ.
Nhóm bảo trợ trung lưu gồm hai nhóm chính, mà có thể được nhận
diện, không phải bằng vị trí pháp lý mà vị trí xã hội học của họ, như “giới quý
tộc phục vụ” và “những người cung cấp cho triều đình.” Giới quý tộc phục vụ gồm
các trí thức chuyên nghiệp, được thuê làm tại các tổ chức nhà nước cũng như tư
nhân; những người cung cấp cho triều đình là các nhà thầu phụ hay những người lệ
thuộc trực tiếp của các đơn vị kinh tế của gia tộc chính trị nhận con nuôi, các
công ty tư nhân de jure và các công
ty mẹ (holdings) nhà nước. Trong khi được nhắc tới về mặt ý thức hệ như một “tầng
lớp trung lưu quốc gia,” các nhóm này quả thực tạo thành một mức của thân phận
chư hầu lệ thuộc với quyền tự do hạn chế trong các lĩnh vực chính trị và hoạt động thị trường.
Cuối cùng, sự lắp đặt các mối quan hệ nhà bảo trợ-người được bảo
trợ trong một nền chuyên quyền bảo trợ cũng có thể mở rộng xuống đáy của kim tự
tháp xã hội nữa. Ví dụ hay nhất và gây ấn tượng mạnh nhất về nhóm bảo trợ hạ
lưu là những người lao động công (ích) ở Hungary. Một định chế sớm hơn được chính
phủ Orbán cải cách, công việc công ích là một chương trình giảm nhẹ thất nghiệp
được thích nghi cho các nhu cầu truyền thông chính trị và được tài trợ một cách
không thể tiên đoán được (ví dụ, trong 2014 nó thuê nhiều gần gấp đôi người làm
trong tháng bầu cử quốc hội hơn tháng sau đó). Những người được thuê làm trong
chương trình này không chỉ bị bản chất tạm thời, ad hoc của công việc này làm khổ, cùng với sư thực rằng họ làm việc
chỉ được nửa lương tối thiểu, mà họ cũng bị đau khổ bởi việc làm và sự sa thải
của họ là một quyết định tùy ý của thị trưởng địa phương, mà không thể bị chất
vấn một cách hợp pháp.
Không ngạc nhiên những người lao động công ích ở Hungary của Orbán không có sự lựa chọn nào trừ phải chịu để giúp đỡ các cuộc mít tinh lớn của đảng chính phủ như những đồ trang trí-sinh học, tham gia như những người phản-biểu tình tại các cuộc biểu tình chống chính phủ, hay làm việc trên các bất động sản của những người được bảo trợ địa phương. Tác động kỷ luật của hệ thống này có thể thấy trong các kết quả bầu cử của các làng nhỏ và dễ bị tổn thương nhất: một làng càng bị tác động bởi công việc công ích, càng nhiều người của nó bỏ phiếu cho đảng cai trị.
96. MỘT XÃ HỘI NHÓM BẢO TRỢ LÀ KHÁC VỚI MỘT XÃ HỘI TÂN TỰ DO, bởi vì ở mức các nhóm xã hội thì chủ nghĩa tân tự do nguyên tử hóa—còn chủ nghĩa bảo trợ chư hầu hóa. Việc tính đến ngữ cảnh rộng hơn của xã hội nhóm bảo trợ tiết lộ vì sao khung khổ của chủ nghĩa tân tự do gây lạc lối khi nó phân tích các quan hệ xã hội trong nền chuyên quyền bảo trợ. Lý tưởng tân tự do là logic cạnh tranh, lãi-và-lỗ của thị trường tự do, mà nó muốn tôn lên làm nguyên tắc cơ bản của mọi kiểu quan hệ xã hội trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Hạn chế năng lực của các định chế đoàn kết xã hội, chủ nghĩa tân tự do thúc đẩy sự cạnh tranh thuần túy của mọi diễn viên xã hội, ngay cả đến mức nguyên tử hóa. Chủ nghĩa bảo trợ, ngược lại, thúc đẩy sự loại bỏ cạnh tranh: nó chư hầu hóa, hơn là nguyên tử hóa, các nhóm xã hội. Gia tộc chính trị nhận con nuôi bắt đầu thay thế các cơ chế thị trường tự do, hay “bàn tay vô hình” của các quá trình thị trường bằng bàn tay hữu hình của nhà bảo trợ chóp bu (Mệnh đề 80).
Chúng ta có thể so sánh ba hậu quả xã hội có vẻ giống hệt nhau của
các chế độ bảo trợ và tân tự do để quan sát những sự khác biệt của chúng. Thứ
nhất, bất bình đẳng về của cải và thu nhập tăng nhanh trong cả hai chế độ. Nhưng
chủ nghĩa tân tự do dẫn đến bất bình đẳng thị trường, xuất phát từ các cơ chế của
chủ nghĩa tư bản và nền kinh tế thị trường, còn một xã hội nhóm bảo trợ có bất
bình đẳng bảo trợ, do các cơ chế của các mạng lưới bảo trợ phi-chính thức gây
ra và bảo tồn. Những người ở đỉnh của hệ
thứ bậc xã hội lên đó bởi quyết định của nhà bảo trợ chóp bu; và không ai, mà có
thể đã leo lên đó qua các kênh trọng dụng nhân tài, có thể giữ vị trí của họ nếu
nhà bảo trợ chóp bu muốn cách chức họ,
tiếp quản các tái ản của họ (Mệnh đề 84). Elite cai trị, gia tộc chính trị nhận
con nuôi không phải được gây ra bởi, mà là
nguyên nhân của, các hình mẫu của sự bất bình đẳng, sự giao tiếp, và sự xa cách xã hội.
Thứ hai, dưới chủ nghĩa tân tự do, sự dễ bị tổn thương của các nhân viên vis-à-vis các ông chủ tăng lên bởi sự làm yếu các cong đoàn và các quyền lao động. Điều này cũng có thể xảy ra trong một nền chuyên quyền bảo trợ—nhưng chế độ đó tước quyền cả các ông chủ và các nhân viên, buộc họ vào đại vị nhóm bảo trợ qua sự bảo trợ hóa. Mặc dù quyền tùy nghi của ông chủ được mở rộng de jure, ông chủ, mà hoặc liên kết với mạng lưới bảo trợ phi-chính thức hay cố gắng để tránh cắt ngang con đường của nó, được kỳ vọng để dungfq lc của họ cho sự thiên vị chính trị, không đơn giản vì động cơ (lợi nhuận) cá nhân. Cuối cùng, chúng ta có thể thấy không một ông chủ tự do nào mà có thể hạn chế sự tự trị của các nhân viên của họ trừ nhà bảo trợ chóp bu mà phá vỡ sự tự trị của cả hai, một cách trực tiếp hay gián tiếp.
Cuối cùng, các chế độ chuyên quyền bảo trợ có thể có chính sách
thuế, mà trong một nền dân chủ tự do có thể coi như bảo thủ-cánh hữu, ủng hộ
hàng ngũ cao hơn của tầng lớp trung lưu. Nhưng điều này cũng có thể được hiểu từ
quan điểm của xã hội nhóm bảo trợ. Như chúng tôi đã nhắc đến, nhà bảo trợ chóp bu là một tên cướp ở một
chỗ: hắn không đơn giản ăn cắp mà liên tục làm vậy, vì thế hắn phải đảm bảo vị
trí của mình trong quyền lực (Mệnh đề 64). Do đó, hắn cũng cần các phiếu của những
người thuộc về các nhóm không-nhóm bảo trợ nữa, mà đã có thể trốn sự bảo trợ hóa:
một cách điển hình hoặc bởi vì họ được quyền hưởng các trợ cấp nhà nước chuẩn tắc
(những người về hưu, các sinh viên v.v.) hay các thành viên của giai cấp tư sản, mà có kỹ năng kinh doanh,
các công ty định hướng xuất khẩu, và/hoặc đã tích tụ được vốn rồi trong các thị
trường mà gia tộc chính trị nhận con nuôi đã
chưa sáp nhập được. Không có khả
năng nhắm mục tiêu họ với sự can thiệp tùy ý, nhà bảo trợ chóp bu dùng
kho vũ khí chuẩn tắc của nhà nước để lôi
kéo họ. Trong khi các phiếu của những người ở dưới đáy của hệ thứ bậc xã hội có thể được mua rẻ bằng các quà tặng vật
chất rẻ, một lần, các nhóm được nhắc tới ở trên (mà cũng có khuynh hưởng bỏ phiếu
hơn những người nghèo) có thể được xoa dịu qua việc cắt giảm thuế, tái phân phối
trái khoáy, và loại như vậy.
97. SỰ ỔN ĐỊNH XÃ HỘI CỦA MỘT NỀN CHUYÊN QUYỀN BẢO TRỢ được bảo đảm bởi đặc lợi (vested interest) của các nhóm nhóm-bảo trợ (clientage groups) trong status quo (hiện trạng). Không gống các chế độ độc tài cộng sản mà dựa vào việc dùng khủng bố hàng loạt để tránh sự nổi dậy dân chúng, các chế độ chuyên quyền bảo trợ dùng các phương tiện khác nhau của sự thuyết phục chính trị quần chúng (Bảng 34). Giữa chúng, chúng ta có thể thấy ý thức hệ, mà chúng ta sẽ thảo luận trong các mệnh đề tiếp; cũng như sự cưỡng bức và sự thâu nạp, mà được làm cho có thể bởi sự tạo ra xã hội nhóm bảo trợ.
Sự ổn định của các nhóm bảo trợ là khá khác với sự ổn định của sự ủng hộ chính trị của các công dân tự trị trong một nền dân chủ tự do. Những người có được vị trí qua các cơ chế đặc quyền dựa vào quyền lực có cái gì đó để mất rồi—đấy là cái gắn họ với trật tự mới. Điều này là đặc biệt đúng trong trường hợp của các thành viên của giới quý tộc phục vụ không đạt các vị trí của họ bằng công trạng chuyên môn, mà vì lòng trung thành vô điều kiện được đòi hỏi từ họ. Một vị trí, được cho là do công trạng trước đây, trở thành một việc làm được giao—và có khả năng bị sự ưu ái bảo trợ lấy đi. Do đó nô bộc bảo trợ có một đặc lợi trong việc giữ vững hệ thống, vì bất cứ sự thay đổi nào sẽ đến với một rủi ro sống còn.
Kỷ luật giữa những người còn lại trong hệ thống được lọc tăng thêm bởi một khoảng cách khổng lồ giữa thu nhập hiện tại của họ và các kỹ năng của họ sẽ đáng giá trên thị trường tự do. Trong gới của các nhà cung cấp cho triều đình và các nhóm bảo trợ thượng lưu, để là một người thắng hay người thua của một vụ đấu thầu có thể được do bằng các sản nghiệp. Khi chế độ ổn định, họ chỉ lo về các trừng phạt tùy ý tiềm năng của nhà bảo trợ chóp bu, mà họ có thể tránh với lòng trung thành; nếu chế độ sụp đổ, họ sẽ cần sợ về phải chịu trách nhiệm cho các hợp đồng và các cơ hội nhận được thường bất hợp pháp, mà họ có thể trở thành nạn nhân dưới một chế độ thực thi pháp luật chuẩn tắc.
Sẽ là một sai lầm để đánh giá thấp năng lực của chế độ để củng cố sự cố kết và lòng trung thành của những người được nhân vào gia tộc chính trị. Giống kết cấu thép trong bê tông cốt thép: sự cố kết xã hội của ý chí của các cá nhân là một chiều không cảm nhận được cho các thăm dò dư luận, nơi ý thức hệ, cương lĩnh, và sự tồn tại rõ ràng khớp với các thành viên của nhóm bảo trợ.
Ngoài lợi ích vật chất và nỗi sợ báo thù ra, sự ủng hộ của các thành viên của các nhóm bảo trợ cho chế độ cũng có thể là thành thật. Theo nghĩa này, niềm tin ý thức hệ hoàn toàn được bổ sung bằng tâm lý học xã hội kỳ lạ của xã hội nhóm bảo trợ. Trong các nước thay đổi-chế độ, toàn bộ các nhánh của ngành công nghiệp tan rã với sự mất các thị trường truyền thống của khối Soviet; và sau khi việc làm gần như đầy đủ thì các làn sóng thất nghiệp ồ ạt kéo đến. Thêm vào sự căng thẳng tăng cường đột ngột này đến từ sự bất trắc chung của sự cạnh tranh thị trường, chúng ta có thể kết luận rằng kinh nghiệm chung của nhân dân hậu cộng sản về các trật tự tiếp cận mở (open-access) đã là nỗi lo sống còn: quan niệm về sự bất trắc và nỗi sợ từ triển vọng thực tế mất mọi thứ.
Khi thay cho một trật tự như vậy một nền chuyên quyền bảo trợ và một xã hội nhóm bảo trợ được thiết lập, sự phụ thuộc bảo trợ có thể ban cho một cảm giác an toàn. Trong khi mất quyền tự do của họ cho các nhà bảo trợ của họ, các thành viên của các nhóm bảo trợ phải nhận được các lợi ích nào đó một cách ổn định để tạo ra sự phụ thuộc và cơ hội về các mối đe dọa không-hung bạo từ các nhà bảo trợ. Các lợi ích này, và bản chất ổn định của nó, tạo ra một môi trường có thể tính toán được gây ra sự an toàn bản thể luận: cảm giác về sự an toàn và sự tin cậy cá nhân, được tạo ra bởi tính có thể dự đoán được của thói quen hàng ngày. Và vì mọi người nói chung không thích rủi ro, ngay cả những người mà không là những người mê mẩn theo hệ thống phải thấy các triển vọng cực kỳ hứa hẹn để xem xét sự ủng hộ một sự thay đổi căn bản, mức-chế độ. Một xã hội nhóm bảo trợ bằng cách ấy nằm trong cân bằng của một xã hội bảo trợ chủ nghĩa.
Bảng 34: Các biện pháp thuyết phục chính trị quần
chúng trong ba chế độ kiểu cực.
|
(Các)
nhóm mục tiêu |
Hình
thức/phương tiện thực thi |
Tầm quan trọng
tương đối cho sự thuyết phục chính trị quần
chúng trong … |
|||
Nền
dân chủ tự do |
Nền
chuyên quyền bảo trợ |
Chế
độ độc tài Cộng sản |
||||
Cưỡng bức |
Dùng bạo lực |
Dân cư |
Sự ép buộc trắng (xám và đen) |
– |
+ |
+++ |
Các đe dọa không-bạo lực |
Những người nhận chuyển giao |
Cắt chuyển giao |
– |
+++ |
– |
|
Công chức |
Sa thải khỏi việc làm |
– |
+++ |
+ |
||
các diễn viên kinh tế |
Loại trừ khỏi các hợp đồng (nhà nước) |
– |
+++ |
– |
||
Thâu-nạp |
Dân cư |
Chủ nghĩa bảo trợ/ sự cải thiện tiêu chuẩn
sống (có mục tiêu) |
++ |
++ |
++ |
|
Ý thức hệ |
Dân cư |
Media |
+++ |
+++ |
++ |
Ghi chú: +++: phương tiện chính; ++: phương tiện thứ hai; +: phương tiện thứ ba; –: không dùng cho sự thuyết phục chính trị quần
chúng.
Chủ nghĩa dân túy: một Công cụ Ý thức hệ cho Cương lĩnh chính trị của tính Ích kỷ Tập thể Không bị ràng buộc
về Đạo đức
98. CÁC DIỄN VIÊN BẢO TRỢ ÁP DỤNG Ý THỨC HỆ, hơn là bị ý thức hệ-dẫn dắt. Các lợi ích vật chất và tâm lý học xã hội của xã hội nhóm bảo trợ được bổ sung bởi một chân thứ ba của sự ổn định quyền lực: ý thức hệ. Trong khi chèn ép các đối thủ của họ ra khỏi lĩnh vực truyền thông (Mệnh đề 47), gia tộc chính trị nhận con nuôi dùng media riêng của nó để truyền bá các thông điệp ý thức hệ để chính danh hóa sự cai trị của nhà bảo trợ chóp bu (Mệnh đề 43-44).
Khi nói đến phân tích các các diễn viên bảo trợ, ý thức hệ không
được phép hiểu với giá trị danh nghĩa. Đấy là điều thường xảy ra trong các phân
tích chính trị: khi một diễn viên chính trị nhắc đến các giá trị dân tộc chủ
nghĩa, họ được coi là một người dân
tộc chủ nghĩa; khi họ nhắc đến các
giá trị bảo thủ-cánh hữu, họ được coi là một nhà bảo thủ v.v. Các diễn viên được
đặt trên trục tả–hữu và tự do–bảo thủ dựa vào các mục tiêu được truyền đạt và
các tuyên ngôn đảng.
Việc dán nhãn một diễn viên như “dân tộc chủ nghĩa” hay “bảo thủ” trình bày ý thức hệ như yếu tố xác định của diễn viên đó, và vì
thế nó dường như để giả định rằng họ không chỉ truyền đạt ý thức hệ mà cũng coi
nó một cách nghiêm túc: rằng đó là phương hướng
chủ đạo mà họ hành động theo. Giả định này được biện minh nếu các hành động
của một diễn viên thực sự phù hợp với ý thức hệ được truyền đạt của họ. Nếu có
một sự hài hòa của lời nói và việc làm, chúng ta có thể nói về sự dẫn dắt ý thức
hệ.
Một ví dụ cho chính trị do ý thức hệ-dẫn dắt được các chế độ độc tài cộng sản cung cấp. Chúng có thể được coi như các chế độ do ý thức hệ-dẫn dắt bởi vì các đặc điểm chính của chúng (hệ thống độc-đảng và độc quyền của quyền sở hữu nhà nước về các tư liệu sản xuất) có thể được dẫn xuất từ ý thức hệ của chúng, chủ nghĩa Marx-Lenin (Mệnh đề 42). Jarosław Kaczyński, mà đã cố gắng thiết lập một nền chuyên quyền bảo thủ ở Ba Lan và khăng khăng về một luật phá thai nghiêm ngặt bất chấp sự không được lòng dân của nó, minh họa thêm rằng các diễn viên do ý thức hệ-dẫn dắt sẵn sàng trả một cái giá chính trị cho việc kiên quyết về các chính sách nào đó.
Và trong khi các đảng của các nền dân chủ tự do có thể đưa ra các thỏa hiệp, và họ chắc chắn có các chiến thuật chính trị, cũng có ý nghĩa để nhận diện chúng với các ý thức hệ cánh-tả và cánh-hữu. Vì điểm xuất phát của chúng là một ý thức hệ: chính các mục tiêu ý thức hệ, chính sách công (Mệnh đề 56) mà họ mang tới bàn và thỏa hiệp, thiết kế các chiến thuật chính trị cho, và muốn nắm quyền lực cho.
Tuy nhiên ý thức hệ được truyền đạt có thể không luôn luôn là phương hướng chỉ đạo của một diễn viên hay chế độ do ông lãnh đạo. Trong trường hợp của các diễn viên bảo trợ, không có sự hài hòa nào của lời nói và hành động: ý thức hệ của họ thực hiện không phải vai trò của một phương hướng chỉ đạo mà của một vỏ bọc. Họ không là cánh tả, cũng chẳng là cánh hữu: họ bị dẫn dắt bởi các động cơ kép của sự tập trung quyền lực và sự tích tụ sự giàu có (Mệnh đề 25), và ráp lại một bộ quần áo ý thức hệ phù hợp với cơ thể có bản chất chuyên quyền của họ từ một loại chiết trung của các khung ý thức hệ. Nói cách khác, không phải là một ý thức hệ định hình hệ thống mà theo đó nó cai trị, mà là hệ thống định hình các giá trị ý thức hệ, với các độ tự do và tính biến thiên to lớn. Sự cố gắng để giải thích các động lực của các diễn viên bảo trợ hậu-cộng sản từ chủ nghĩa dân tộc, các giá trị tôn giáo, hay một cam kết với tài sản nhà nước là một thí nghiệm vô ích như việc cố gắng suy ra bản chất và hoạt động của mafia Sicilian từ chủ nghĩa yêu nước địa phương, sự lấy gia đình làm trung tâm, và lòng mộ đạo Kitô.
99. VỀ BÊN CUNG, SỰ CỐ KẾT GIÁ TRỊ ĐƯỢC THAY BẰNG SỰ CỐ KẾT CHỨC NĂNG trong truyền thông ý thức hệ của các nhà dân túy bảo trợ. Để phân tích hoạt động của ý thức hệ trong các chế độ bảo trợ, chúng ta cần đưa ra một sự phân biệt giải tích giữa bên cung của thị trường chính trị—các nhà dân túy bảo trợ—và bên cầu—các cử tri của họ. Về phần cái trước, trong khi truyền thông của các diễn viên do ý thức hệ-dẫn dắt cho thấy sự cố kết giá trị, còn của các diễn viên áp dụng-ý thức hệ cho thấy sự cố kết chức năng, được đặc trưng bởi một chủ nghĩa thực dụng không mang-giá trị.
Để là chính xác hơn, chúng ta có thể nói về sự cố kết giá trị khi ý thức hệ của diễn viên là chặt chẽ về logic và được áp dụng một cách nhất quán (không gồm các lập trường mâu thuẫn hay tiêu chuẩn kép). Ngược lại, sự cố kết chức năng có nghĩa rằng ý thức hệ diễn viên là không chặt chẽ về logic và không được áp dụng một cách nhất quán (tức là, gồm các lập trường mâu thuẫn hay các tiêu chuẩn kép), nhưng hình mẫu của việc chọn và thay đổi các lập trường ý thức hệ bắt nguồn một cách mạch lạc từ những cân nhắc thực dụng, tức là, nguyên tắc về lợi ích elite trong trường hợp của các nhà dân túy bảo trợ (Mệnh đề 25).
Trong các chế độ toàn trị do ý thức hệ-dẫn dắt, các diễn viên nhà nước phục vụ cùng ý thức hệ phù hợp với một mục tiêu mục đích luận; trong một chế độ áp dụng ý thức hệ, các diễn viên nhà nước hoặc không theo bất kể ý thức hệ nào một cách nhất quán hay họ theo các ý thức hệ khác nhau mà có chức năng cục bộ, dẫn đến một sự pha trộn hoạt động nhà nước không cố kết về giá trị nhưng lại cố kết-chức năng.
Tất nhiên, không phải tất cả các giá trị ý thức hệ dễ dàng hợp với các hình mẫu hành vi của chủ nghĩa bảo trợ. Ví dụ, những ý thức hệ nhấn mạnh sự tự trị và quyền tự do cá nhân là xa lạ với nó vì vai trò của người đứng đầu gia tộc gia trưởng là dễ hòa giải hơn với các yếu tố của các ý thức hệ tập thể chủ nghĩa mà cho phép sự thống trị đối với hộ gia đình. Không phải tất cả các ý thức hệ tập thể chủ nghĩa cũng có thể được hòa giải với chức năng này: chủ nghĩa tập thể có cơ sở giai cấp quốc tế chủ nghĩa của chủ nghĩa Marx-Lenin là không phù hợp cho sự hợp pháp hóa ý thức hệ của các hình mẫu gia trưởng của quyền lực. Vì thế, một nhà nước mafia hầu hết kết thúc với việc nhặt các thứ linh tinh từ bảng liệt kê ý thức hệ của các hệ thống độc đoán cánh-hữu.
Khung khổ bao quát mà các diễn viên bảo trợ dùng là chủ nghĩa dân túy—một công cụ ý thức hệ hoàn hảo vì nó đưa đến chỉ sự cai trị không bị ràng buộc của nhà bảo trợ chóp bu, không phải ông ta dùng quyền lực thế nào (Mệnh đề 43-44). Nói chung, một nhà bảo trợ dân túy có thể dán nhãn bất kể vị trí nào như “lợi ích chung” hay “lợi ích quốc gia,” và vì thế biến đối lập với nó trở nên bất hợp pháp và chống-quốc gia. Đặc biệt, khi nói đến việc biện minh các hành động cụ thể của sự tập trung quyền lực và tích lũy-sự giàu có, các nhà dân túy bảo trợ phê phán status quo họ muốn thay đổi (họ cho một “chẩn đoán”) và trình bày hoạt động của họ như giải pháp ( “liệu pháp”). Nhưng chẩn đoán và liệu pháp bị tách rời về mặt logic: hoạt động của cái trước chỉ để chính danh hóa việc thay đổi status quo, và làm mất tính chính danh của bất cứ sự phê phán thay đổi nào như một sự bảo vệ status quo.
Bảng 35 chứa một tóm tắt của các vỏ bọc như vậy được nhà nước mafia Hungari sử dụng: một hỗn hợp các lập luận không mạch lạc về giá trị và các hành động phục vụ một cách mạch lạc các chức năng tập trung quyền lực chính trị và sự tích lũy sự giàu có cá nhân.
Bảng 35: Các vỏ bọc ý thức hệ phù hợp với nền chuyên quyền bảo trợ (từ truyền thông của nhà nước mafia Hungari).
Động cơ (nguyên
tắc chỉ đạo) |
Hành động |
Công cụ ý thức hệ |
Chuỗi lập luận |
Khả năng che đạy (hậu quả logic của lập luận) |
|
Tập trung quyền
lực chính trị |
Sự tập trung thể chế (bảo trợ hóa chính trị) |
Chủ nghĩa bảo thủ |
Văn
hóa dân tộc hay tôn giáo phải được bảo vệ → không ai được phép trệch |
Kiểm
soát các sự tự trị bị tuyên truyền đánh dấu như lệch lạc → lọai trừ
các phong cách sống thay thế và tư duy phản biện |
|
Chủ nghĩa đa số |
Ủy thác dân chủ: các nhà cai trị đại diện công chúng → không diễn viên không được bàu nào (hay
các bù nhìn của họ) có thể cản trở ý chí của nhân dân |
Các
nhà chính phiệt có được thẩm quyền tột
cùng → không đối lập và phê phán nào được phép từ bất kỳ ai (kể cả
nhân dân) |
|||
Vô hiệu hóa các mối
đe dọa bên ngoài |
|||||
Chủ nghĩa dân tộc |
Các
nhà cai trị là các đại diện đích thực của
quốc gia và các lợi ích quốc
gia → các lợi ích quốc gia phải được bảo vệ và các kẻ
thù của nó phải bị tiêu diệt |
Gia
tộc chính trị nhận con nuôi quyết định cái
gì là quốc gia → đối lập
có thể bị loại từ khỏi quốc gia,
các lợi ích tư nhân/bảo trợ trở thành “các lợi ích quốc gia” |
|||
Tích lũy sự giàu có cá
nhân |
Sự thiên vị bất hợp pháp |
Chủ nghĩa nhà nước |
ý thức
hệ thị trường-tự do không dẫn đến sự sung túc (mà đến khủng hoảng trong 2008) → nhà nước nên giúp đỡ nền kinh tế quốc gia (ví dụ, bằng việc
xây dựng một “giai cấp tư sản dân tộc” |
Các ưu ái tùy ý cho các
diễn viên không hiệu quả được hợp pháp hóa
→sự điều phối thị trường có thể được thay thế bằng sự tái phân phối
thị trường-quan hệ |
|
Chống chủ nghĩa tự do |
Các chính sách (tân) tự do đã dẫn đến sự cai trị của
các công ty đa quốc gia và nợ công cao→nhà nước nên đảo ngược điều đó qua sự
can thiệp |
Sự đánh thuế và quy định tùy ý được hợp pháp hóa → gia tộc chính trị trị nhận con nuôi có thể bảo trợ bất kỳ khu
vực kinh tế tự do trước nào |
|||
Săn mồi bất hợp
pháp |
|||||
Công lý |
Elite
trước đã có được sự giàu có của nó một cách gian lận (trong tư nhân hóa) → nhà nước nên lấy tài sản từ những
người xấu và trao cho những người tốt. |
Sự chiếm đoạt tùy ý tài sản được hợp pháp hóa →
gia tộc chính trị nhận con nuôi có thể lấy tài sản của bất cứ
ai trong số các đối thủ của nó (các mục tiêu) |
100. Về bên cầu các cử tri dân túy cũng theo các lợi ích của họ trong việc chọn ý thức hệ phù hợp nhất với mục tiêu bảo tồn địa vị xã hội và kinh tế của họ. Sự cố kết chức năng là song phương: nó áp dụng cho bên cung của chủ nghĩa dân túy như nó áp dụng cho bên cầu của nó, các cử tri. Nhiều cử tri dân túy tìm kiếm và nhận một thông điệp ý thức hệ mà cung cấp tính chính danh để bảo vệ địa vị của họ khỏi các hiện tượng, các quá trình, và những người đang đe dọa.
Các nhà dân túy của các nền dân chủ Tây phương đang cố gắng với tới “những người thua” theo sau những cú sốc xã hội do các chính sách nhập cư và bản sắc thiểu số gây ra, cũng như những khó khăn và khủng hoảng kinh tế gắn với toàn cầu hóa. Các nhà dân túy trong vùng hậu-cộng sản cũng thế, trong khi một phần tạo ra cầu của họ, thường ngẫm nghĩ về những căng thẳng xã hội có-trước. Vào lúc Liên Xô sụp đổ, một phần đáng kể của xã hội đã kỳ vọng rằng, khi chấp nhận một thiết chế kiểu Tây phương, tiêu chuẩn sống không lâu cũng sẽ ngang với phương Tây. Thế nhưng dù các hệ thống đàn áp lớn chắc như đá nguyên khối sụp đổ đã xuất hiện các hình thức mới chưa từng có của tính dễ bị tổn thương cá nhân hàng ngày.
Thứ nhất, mọi người trải nghiệm khủng hoảng của sự biến đổi kinh tế, đẩy những tỷ lệ lớn của xã hội vào sự lo lắng sinh tồn. Thứ hai, quá trình tư nhân hóa được xem là bất công, hoặc bởi vì họ thấy công cụ của sự chuyển quyền lực trong đó hay đơn giản bởi vì hầu hết dân cư bị bỏ bên ngoài nó, tạo ra một cảm giác chung về bị lừa khỏi “tài sản chung” (mà thực ra nó đã chưa bao giờ là). Thứ ba, sự vô chính phủ tài phiệt và các mức thấp của thể chế hóa trong các nước như Ukraina và Nga đã dẫn đến sự không chắc chắn lan rộng về mặt các hợp đồng và các quyền tài sản, đặc biệt cho các doanh nhân. Các diễn viên kinh tế có thể cảm thấy dễ bị tổn thương với tư cách các đối thủ cạnh tranh, các nhà cung cấp, và đôi khi thậm chí con mồi đối với bộ máy quan liêu, các nhà tài phiệt địa phương, và các công ty đa quốc gia (Mệnh đề 82). Và nói chung sự thành công hay thất bại thị trường đã rất ít liên quan đến thành tích hay dịch vụ khách hàng thực sự. Cuối cùng, sự bất bình đẳng tăng lên về mặt thu nhập và của cải, một phần như một kết quả của các nhân tố trước nhưng cả bởi vì các mức cao của chủ nghĩa bảo trợ (Mệnh đề 96).
Các nhân tố này đã bị các nhà dân túy bảo trợ khai thác, cung cấp một chuyện kể vẽ ra một mối quan hệ nhân quả rõ ràng giữa các vấn đề như vậy và các thị trường, các elite chính trị tự do, và các diễn viên chính trị và kinh tế đế quốc. Ở nước Nga, người ta thay đổi từ như democrat (демократ, nhà dân chủ) thành từ dermokrat (дермократ “shitocrat-cứt-octrat”) và từ tư nhân hóa privatization (приватизация) thành từ prikhvatizatsiya (прхватизация “grabitization -chộp giật hóa”). Tại Hungary của Orbán, từ “liberal-tự do” trở thành câu chửi, mà liên quan đến “hai thập niên chuyển đổi hỗn loạn”, đến “sự thay đổi chế độ bị đánh cắp,” và đến việc “tư bản quốc tế cướp bóc đất nước chúng ta.” Các elite mà đã tháo dỡ tài sản nhà nước bị dán nhãn “những kẻ hầu hạ vốn quốc tế” và “những người ủng hộ sự sự chuyển đổi quyền lực cộng sản.”
101. CÁC NHÀ DÂN TÚY BẢO TRỢ TẠO RA MỘT BẢN SẮC TẬP THỂ (“CHÚNG TA”) với các khẩu hiệu như Chúa, Tổ quốc, và Gia đình bằng quá trình chiếm đoạt giá trị qua sự định nghĩa lại. Chuyện kể dân túy dựa vào một sự đối lập Manichean “chúng ta và chúng nó,” và sự xây dựng diễn ngôn về hai nhóm này. Để xây dựng nhóm “chúng ta,” các nhà dân túy áp dụng-ý thức hệ dựa vào các bản sắc hiện có, liên kết với các cộng đồng truyền thống của sự bảo vệ lẫn nhau. Các bản sắc này được khắc sâu vào đầu óc mọi người như các giá trị mà, nếu được tôn trọng, bảo đảm sự sống sót và sự bảo vệ chống lại các mối đe dọa bên ngoài. Quan trọng nhất trong số các cộng đồng như vậy là ba: cộng đồng tâm linh (Chúa), cộng đồng sắc tộc (dân tộc), và gia đình. Trong thời khủng hoảng, mọi người theo phản xạ quay về các cộng đồng an toàn này, mà vì thế là cố kết-chức năng cho mọi người và cung cấp một hệ thống giá trị đặc biệt thích hợp mà nhà dân túy có thể dựa vào.
Tuy vậy, để biến chúng thành cố kết-chức năng cho cả nhà dân túy nữa, ông ta không đơn thuần dùng các bản sắc này như chúng tồn tại mà thực hiện sự chiếm đoạt giá trị thông qua sự định nghĩa lại (Hình 16). Nhà dân túy chọn các yếu tố hấp dẫn từ mỗi bản sắc cộng đồng truyền thống; loại bỏ khỏi chúng các phần không hợp với hình mẫu của sự thống trị bảo trợ; và định khung lại chúng theo ngữ cảnh của chế độ. Sự chọn “Chúa,” chẳng hạn, dựa vào sự bác bỏ tính duy lý và tranh luận được khai sáng, định khung theo một cách để trao cho gia tộc chính trị nhận con nuôi một vị trí đạo đức không thể nghi ngờ. Trong khi các giáo huấn tôn giáo cơ bản về sự đoàn kết, lòng trắc ẩn, và sự chừng mực bị loại bỏ vì chúng là không tương thích với chủ nghĩa gia đình vô đạo đức (Mệnh đề 39).
“Dân tộc [quốc gia, tổ quốc]” là một cộng đồng ràng buộc về cảm xúc mà nhân danh nó có thể đòi hỏi sự hy sinh; mặt khác, nhà dân túy loại bỏ yếu tố tư cách công dân, cũng như sự đoàn kết gắn với nó. Diễn đạt đơn giản, một số người có thể bị loại trừ khỏi dân tộc: không phải mọi người, mà là một công dân, và vì thế phần của dân tộc theo định nghĩa gốc của nó, một cách tự động cũng là một diễn viên quốc gia, và nghĩa vụ đạo đức của các thành viên của quốc gia đối với họ cũng chẳng tự động. Điều này dẫn trực tiếp đến sự tái định khung: chủ nghĩa dân tộc của nhà nước mafia không được định hướng chống lại các quốc gia khác, mà chống lại những người bên trong quốc gia mà không là phần của gia tộc chính trị nhận con nuôi, không lệ thuộc vào gia tộc đó như các chư hầu, và là các đối thủ của gia tộc.
Cuối cùng, trong quan hệ với khái niệm “gia đình,” các nhà dân
túy dùng các xu hướng thế tục, tiến bộ của phương Tây như một ví dụ răn đe, và nói để bảo vệ mô hình gia đình truyền
thống, khẳng định tính chính danh xã hội của cùng hình mẫu của sự cai trị gia
trưởng mà được hiện thân trong vai trò của nhà
bảo trợ chóp bu trong nước.
Hình 16: Quá trình
chiếm đoạt qua sự định nghĩa lại.
Chọn Tái định khung
Loại bỏ Định nghĩa lại Định nghĩa
102. CÁC NHÀ DÂN TÚY BẢO TRỢ CHỌN KẺ THÙ (“HỌ-CHÚNG NÓ”) theo cách áp dụng áp dụng-ý thức hệ, đi theo chính trị kinh tế học bêu xấu. Sự xây dựng nhóm “họ” gồm các kỹ thuật xây dựng kẻ thù và sự bêu xấu. Các nhà dân túy bảo trợ không phải là những người chống-Semites: các mục tiêu của họ không hải là “những người Do thái,” nhưng họ coi chống-Semites như một khán giả chính trị mục tiêu. Vấn đề của họ với các ngân hàng không phải chúng là “Do thái” mà là chúng không phải là của họ. Họ cũng chẳng là kỳ thị chủng tộc—họ chỉ muốn lôi kép những người có khynh hướng kỳ thị chủng tộc vào phe của họ thôi. Họ làm điều này một cách có ý thức, thực tế, mà không có sự rối loạn cảm xúc.
Ngược lại với những kẻ cực đoan do ý thức hệ-dẫn dắt như những kẻ phát xít và các chính trị gia bài ngoại, các nhà dân túy áp dụng-ý thức hệ không có một nhóm “họ” bị bêu xấu ổn định. Họ thay đổi các kẻ thù thường xuyên, theo bầu không khí chính trị hiện thời. Sự bêu xấu ý thức hệ có một “chính trị kinh tế học” đặc thù: kẻ thù được chọn trên cơ sở nhóm nào có tiềm năng đáng kể nhất cho việc gây ra hận thù và sự sợ hãi, và năng lực nào của sự lên tiếng và sự kháng cự nó có thể có (Bảng 36).
Tiềm năng gây-sợ hãi của “những người chị thiệt thòi về mặt xã hội,” như những người vô gia cư, là thấp hơn, và họ bị tách biệt khỏi đa số xã hội chủ yếu bởi địa vị xã hội của họ, như thế giỏi nhất họ có thể dùng làm các mục tiêu cho các chiến dịch hận thù ad hoc. Tuy vậy, “những người LGBT” bị chia khỏi đa số bởi sự chia tách tình dục và văn hóa, còn trong trường hợp của “những người nhập cư” mọi người có thể thấy các đường đứt gãy sắc tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, và văn hóa. Như một kết quả, các nhóm này có thể được dùng trong một thời kỳ dài do tiềm năng gây-sợ hãi cao của chúng.
Bảng 36: Các tiêu chuẩn của các nhóm bị
bêu xấu để thỏa mãn nhu cầu của chức năng áp dụng-ý thức hệ.
|
Chiều chia tách (tiềm
năng cho sự phân biệt ‘họ’ và ‘chúng ta’) |
Tiềm năng gây sợ
hãi |
Năng lực lên tiếng |
Panel ý thức hệ |
|||||
Sắc tộc |
Tôn giáo |
Ngôn ngữ |
Định hướng tính dục |
Truyền thống văn
hóa |
Địa vị xã hội |
||||
Những người bị thiệt thòi/bị tước đoạt về mặt xã hội |
|
|
|
|
|
X |
X |
X |
Thiếu sự đoàn kết |
Những người LGBT |
|
|
|
X |
X |
|
XX |
XX |
Sợ đồng tính |
Các thiểu số tôn giáo |
|
X |
|
|
X |
X |
XXX |
XXX |
Chống-Semitism v.v. |
Các thiểu số sắc tộc/chủng tộc |
X |
|
X |
|
X |
X |
XXXX |
XXX |
Kỳ thị chủng tộc |
Những người tị nạn |
X |
X |
X |
|
X |
X |
XXXXX |
X |
Bài ngoại |