Nguyễn Thị Thanh Bình
Người mà tôi đã được gặp, khá ấn tượng với bờ trán cao triết gia, cặp kính trắng cọng tròn, ria mép lãng đãng bạc lười cạo, ít nói ít cười nhưng lại hóm hỉnh, pha trò.Điều khiến tôi ấn tượng nhất chưa hẳn vì Nguyễn Viện đã sắm
được một tiểu sử rực rỡ vững chắc, mà dường như khi anh bảo anh hoàn toàn không
muốn đoạn rời quê hương mình.
Theo Nguyễn Viện, đã làm một nhà văn thì phải ở lại trên
chính quê hương mình để viết, để đi cùng với những thăng trầm lịch sử, nỗi đau
cùng niềm hy vọng, trăn trở của đất nước.
Bất chấp cho cả những lần bị quê hương ruồng bỏ, rượt bắt
anh phải đi uống-nước-trà với lũ ở đồn Phan Đăng Lưu.
Nói chi đến chuyện sách của một nhà văn đi bên lề trái như
anh được xuất bản trong nước. Dù vậy, tôi vẫn nghĩ biết đâu một khi cuốn truyện
kịch này của Nguyễn Viện được Tiếng Quê Hương của nhà văn Uyên Thao đang tung
ra đời, mà tôi đã có dịp hân hạnh đọc dưới dạng bản thảo sẽ được dịch ra tiếng
Anh, Pháp… để phát hành rộng rãi với thế giới, và rồi sẽ bay ngược về quê nhà.
Kỳ thực con người ở ngoài đời của Nguyễn Viện khá hiền lành,
và sẽ không một chút gì táo tợn, dữ dội, đểu giả, thách đố như trong cõi văn
chương của anh. Đặc biệt là hai tác phẩm Ở phía đông âm phủ / Và hắn đã đến
mà chúng ta đang quan tâm, chú ý.
Ở đây tôi chỉ xin được làm công việc mở một cánh cửa he hé,
khi bước vào thế giới văn chương Nguyễn Viện. Nơi lấp lánh, lộng lẫy chất độc
sáng khác biệt, giỏi đùa cợt giữa biên giới thực-ảo của thứ không gian tiểu
thuyết, và ở đó đối thoại cũng chừng như của những rợn ngợp ý tưởng, trong niềm
tin chính bản thân tác giả muốn truyền đạt tới người đọc.
Vâng, khi trái đất đang nóng dần lên, tôi có cảm tưởng hai
truyện kịch này của Nguyễn Viện cũng như muốn nổ tung cùng thần trí sáng tạo
tuyệt vời của anh.
Cũng cùng một khí quyển chính trị, và cùng một phong cách tiểu
thuyết hóa những nhân vật lịch sử, nhưng Ở phía đông âm phủ lấy bối cảnh
của Việt Nam, và Và hắn đã đến mượn bối cảnh quốc tế.
Chúng ta sẽ được dịp gom chung một cuốn sách để đời độc đáo
trong tay, dù chỉ vỏn vẹn 169 trang, nhưng có thể nói là đã vắt kiệt hết những
suy tưởng ưu tư chất chứa về con người, lẫn những thông hiểu kiến thức thời sự,
văn hóa… Đông Tây của một nhà văn đích thực say đắm, cao cả, tận tụy đến miết
cuối đời.
Phải công nhận đây là cuốn sách hay lạ kỳ mà tôi được đọc từ
bấy lâu nay. Lạ kỳ và của hiếm như chưa từng có một tác giả văn học Việt nam đã
viết trước đó và chắc cả mai hậu. Bởi có lẽ, không một nhà văn nào có thể nhại
theo được bút pháp của Nguyễn Viện. Xây dựng cấu trúc một cuốn tiểu thuyết hiện
đại thì có thể có khá nhiều người làm được. Nhưng bắt chước cho giống Nguyễn Viện
thì không.
Nguyễn Viện thuộc bản quyền bản sắc của Nguyễn Viện đã đành.
Văn xuôi của Nguyễn Viện là của riêng một cõi Nguyễn Viện; kể cả ý đồ đánh đổ
các yếu tố dựng xây nhân vật và cốt truyện. Nói cách khác, truyện của Nguyễn Viện
là truyện không có cốt truyện, và nhân vật cũng không có sự hỗ tương từ đầu
truyện đến cuối truyện.
Hẳn nhiên chúng ta cũng không có ý định xếp Nguyễn Viện vào
ê-kíp của những tác giả hậu hiện đại, vì chính tác giả nhiều khi cũng không rõ
“nguyên tắc” của hậu hiện đại là gì.
Thì chính Nguyễn Viện, khi bàn về nghệ thuật viết văn cũng
đã phát biểu: “Một nghệ sĩ đích thực chỉ sáng tạo từ những đòi hỏi của chính
mình, không vì nhu cầu hiện đại, hậu hiện đại hay một thứ gì khác.”
Công tâm mà nói, văn của Nguyễn Viện tập hợp được nhiều giọng
điệu. Khi thì giễu nhại châm biếm, khi thì thơ mộng như thơ.
Đặc biệt ở hai truyện kịch này, nổi trội nhất là phần đối
thoại giữa những cuộc gặp “giả tưởng” của những chân dung nổi bật thời đại.
Đối thoại được mở ra rất thông minh và có thể làm chao đảo
người đọc bằng những cú hích bất ngờ, khi tác giả bám sát vào hiện thực của những
sự kiện lịch sử để thực hiện những cuộc trò chuyện, phỏng vấn dưới âm ty hay cả
trong một không gian tòa sảnh có máy điều hòa thở đều của trần gian.
Đối thoại vì thế chính là những cuộc độc thoại chồng chất ý
tưởng, và tác giả muốn phơi bày những ẩn ức hay huyễn hoặc tinh thần chưa được
hiển lộ.
Thử nói sơ về truyện kịch Và hắn đã đến, chúng ta sẽ
thấy Nguyễn Viện cho dù muốn sử dụng “chất liệu” lịch sử chính trị, nhưng nhà
văn vẫn là người có quyền kiến tạo, phóng đại một phiên bản chỉ ngờ ngợ như thế
để khám phá, tìm tòi những thú vị đằng sau những phô diễn của nó.
Theo Nguyễn Viện, con người ở nơi đâu cũng đều mong chờ một
đấng tái sinh cứu chuộc. Người dân Do Thái cũng đã từng ngóng trông một vị dẫn
đường kiểu Môi Sen, và tương lai sáng sủa hơn cho dân tộc mình. Như người Việt
chúng ta vẫn có những chờ đợi vô vọng. Tuy nhiên, để khỏi rơi vào cảm giác tuyệt
vọng vô nghĩa, con người có vài suy nghĩ khác nhau về đấng toàn năng.
Tác giả cho rằng chúng ta đã quên là “Ngài” đã có mặt từ khi
sinh ra thế giới con người.
Nhân vật “Hắn” mà chúng ta đang trông đang đợi lắm khi cũng
chỉ là bản chất của con người.
Điều này gợi nhớ đến vở kịch nổi tiếng Trong khi chờ Godot
của Samuel Beckett, hệt Vladimir và Estragon trong vở kịch, đang chờ một điều
gì đó mơ hồ và chừng như không bao giờ đến.
Thật ra tôi cũng khá váng vất với thông điệp gửi gắm sâu sắc
của Nguyễn Viện, về nhân vật “Hắn” chính là con người với tất cả những hỉ nộ ái
ố nhiều mặt đẹp xấu. “Hắn” đâu phải từ trời của Thượng Đế giáng xuống, hay từ
dưới đất được mặc khải chui lên. Mà chính là nằm trong hẳn mỗi người. Do đó, sứ
mệnh được làm người là do chúng ta định.
Hoàn toàn không phải là tại trời, ý trời.
Trên thực tế có muôn vạn ê chề, là do bàn tay điều khiển, dẫn
dắt của những con người siêu nhân “lầm lạc”.
Chúng ta đâu còn lạ gì về sự trơ trọi của con người trong thế
giới hiện đại, nơi những nguyên tắc đạo đức và nhân văn dường như bị lãng quên.
Tiếc là đám đông vốn chỉ là những bầy cừu ngoan ngoãn, chỉ
biết cúi mặt ngồi chờ những rủi may và những sai khiến của những lãnh tụ “siêu
nhân” ấy. Ở đây chúng ta bắt gặp phần “chính luận” sâu sắc của nhà văn Nguyễn
Viện: Đó là tiếng nói nhiều âm thanh đau đớn và van nài của một kẻ sĩ, một trí
thức trước những biến động thời cuộc, khi tác giả ngầm bảo đã đến lúc chúng ta
phải biết nhận thức đó là một niềm trông đợi viển vông, xa vời. Mỗi con người
phải tự có trách nhiệm nhận lãnh vai trò lịch sử giao phó. Không thể thoái thác
cho một ai khác.
Những nhân vật tai to mặt lớn đi đứng, “phát biểu” trong Và
hắn đã đến như Tập Cận Bình, Putin, thế lực tài phiệt toàn cầu đại diện ở
phố Wall, quyền lực Mỹ đại diện bởi tên trùm CIA… đều được Nguyễn Viện quan
sát, mô tả, vẽ lại chân dung khá tài tình.
Những con người làm ra lịch sử và nắm vận mệnh thế giới
trong tay.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Viện, họ cũng chỉ là những nhân vật
được nhà văn tái tạo. Trong một tác phẩm văn học, nhà văn cũng chính là Thượng
Đế. Do đó, Nguyễn Viện tha hồ đặt ra nhiều câu hỏi nhiều nhận định và đưa ra
nhiều ý tưởng lớn mang tính “sinh sự” về chính trị, nhưng anh cũng thật hóm hỉnh
khôi hài và không phải bẻ cong ngòi bút vuốt ve, xu nịnh ai.
Điều này khiến tác phẩm của Nguyễn Viện trở nên đáng đọc, lý
thú của một người có chính kiến và biết trình bày ý tưởng của mình.
Thêm nữa. Dù truyện kịch này có được so sánh, đem làm đối trọng
với Trong khi chờ Godot hay không, đó là công việc nhận định đứng đắn của
các nhà phê bình văn học nên làm. Với tư cách là một độc giả, và tôi cũng chỉ
muốn nhìn dưới góc độ của một độc giả sẵn lòng yêu mến văn chương Nguyễn Viện,
tôi đã bắt gặp rất nhiều đoạn được viết với bút pháp rất thơ, cũng như những mẩu
đối thoại cuốn hút, duyên dáng với nhân vật nữ xuất hiện thoáng chốc tên Ngự.
Một điều đáng nói là văn chương Nguyễn Viện trong tác phẩm
này có vẻ muốn lấy lòng phụ nữ nhiều hơn. Nguyễn Viện đã trút những lằn roi
chăm chọc, châm biếm lên cánh đàn ông nhiều tham vọng xuất chúng kia, nên nơi
đây vắng mặt thứ nhục cảm ẩn ức, cần giải tỏa đâu đó lên thân phận vốn đã bị rẻ
rúng của phụ nữ Việt Nam.
Ở đây Nguyễn Viện hoàn toàn chấp nhận nữ quyền: “Ngự thông
minh hơn tôi. Đó cũng là điều khiến tôi thích Ngự.”
Và những câu văn đọc lên lắm lúc nghe như thơ: “Linh hồn con
người là một đoạn ký ức giữa lưng chừng thời gian. Không có khởi đầu, cũng
không có kết thúc.” Hoặc: “Văn chương không cứu rỗi được cô ấy. Văn chương, nó
rẻ rúng như chùm khế ngọt, xàm xì như một cơn mưa phùn, nặng lòng như một nỗi
đau, cay đắng như một sự phản bội và hân hoan như một nụ hôn đầu. Văn chương nó
không trọng đại như ta tưởng.”
Và như đã mào đầu, truyện kịch Ở phía đông âm phủ được
Nguyễn Viện chọn bối cảnh Việt Nam để lồng những khuôn mặt chính trị lẫy lừng của
dân tộc Việt.
Khác với cuốn Và hắn đã đến, ở đây Nguyễn Viện hoàn
toàn từ chối viết hoa những tên riêng như ông diệm, ông minh, ông ánh, ông huệ…
thậm chí cả hai chữ việt nam, sông gianh, sông bến hải…
Có thể nào chỉ đơn thuần là một cách viết làm mới, hay chính
tác giả bỗng có điều gì đó không vui khi gợi nhớ những tên gọi ấy?
Điều tôi đặc biệt chú ý đến cuốn truyện này, có thể nói là
những chi tiết, những tiểu tiết. Tôi có cảm tưởng chính những tiểu tiết, chi tiết
mới đóng góp để làm thành tác phẩm lớn.
Chẳng hạn khi mô tả ông minh (nhân vật Hồ Chí Minh), Nguyễn
Viện đã rất chi tiết khi viết: “ông huýt sáo một điệu nhạc dân ca trung quốc.”
Hoặc: “Dưới âm phủ ông minh tiếp tục khẳng định chiến thắng vinh quang của mình
khi viết lên quan tài ông diệm ba chữ “tay sai mỹ”, mà quên rằng, chính ông
cũng sẽ chỉ là tốt thí cho bọn quốc tế vô sản như ông diệm đã nói trong cái đêm
trắng ở paris. Hay chi tiết về cục gạch: “ông minh cười nhạt: - Sẽ không ai
tin. Nhưng chính đó là cục gạch trong bếp của mẹ tôi. Đi bất cứ đâu tôi cũng bỏ
vào túi xách mang theo. Đấy là quê hương.”
Với cùng bầu khí chính trị, Ở phía đông âm phủ mở ra
một thế giới của luyện ngục với những gặp gỡ đối thoại hiếm hoi là lạ của những
con người đã từng là lãnh tụ kiệt xuất đã vùi sâu dưới ba lòng tấc đất, nhưng vẫn
còn chưa yên nguôi với giấc mộng bá vương hay tham vọng chưa thành ở trần thế.
Cái làm thu hút người đọc là sự pha trộn nhuần nhuyễn của một
chút gì đó chất liệu lịch sử, đan chen với những hư cấu tưởng tượng phong phú của
một ngòi bút ý thức được điều mình muốn dàn trải, trao gởi.
Có những câu hỏi mà chết rồi cũng không giải mã được, thì
đúng là tác giả đang làm khó độc giả, hay một cách nào đó muốn đánh thức tâm tư
cua con dân Việt: “ông diệm: - Khi nằm trong âm phủ này, nhiều lúc tôi nghĩ, có
thật chúng ta đã sống và chết vì quê hương không?”
Nguyễn Viện cũng sử dụng độc thoại, như một cách thế chuyện
trò với những ý tưởng ngồn ngộn trong đầu mình. Ở đó chúng ta thường bắt gặp
như những suy tư thời sự thế sự, nhưng dù viết dưới đề tài nào đi nữa chừng như
Nguyễn Viện vẫn muốn làm một tiểu thuyết gia hơn là viết như một nhà chính luận:
“Người ta nhìn thấy phía sau của hỗn loạn đó là mỹ và c.s. Những kẻ giấu mặt
này biến những tham vọng thành con sói. Người quốc gia đơn độc và thối rữa
chính quyền từ ông diệm đến ông thiệu trở thành kẻ hiến tế cho những toan tính
của các đại cường. Ở phía bên kia vĩ tuyến, độc dược của tình hữu nghị quốc tế
vô sản thấm xuống lòng đất, và nó biến đất ấy thành đất chết. Con người phải
khóc lóc và nghiến răng.”
Ở đây Nguyễn Viện muốn dùng thể loại truyện kịch có lẽ vì nó
có vẻ thích hợp với những đề tài lịch sử, chính trị, xã hội. Nhất là đã gọi là
truyện (kịch) thì khán giả dường như phải bị bỏ quên, nhường chỗ cho văn bản của
truyện, để hướng tới một tác phẩm văn học với chất thơ, tư tưởng triết lý siêu
linh nhiều hơn. Quả thật có khi khán giả chính là nhân vật “tôi”. Cũng hệt như
có những lúc sân khấu không còn diễn viên,
chỉ là một khoảng trống hoang mang.
Dù đọc dưới góc độ nào đi nữa, tôi ngờ rằng tác phẩm này khi
trình làng sẽ gây nhiều chú ý tranh cãi. Như những khuôn mặt văn chương lẫy lừng
khi viết về những nhân vật lịch sử Trần Vũ, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Mộng Giác,
Nam Cao… thì dù mọi người có bình luận cách nào thì cũng không thể không công
nhận giá trị của những tác phẩm Mùa mưa gai sắc, Gia phả (Trần
Vũ), Phẩm tiết (Nguyễn Huy Thiệp), Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng
Giác) hay Gió lửa (Nam Dao) đều mở ra mỗi người mỗi vẻ cái nhìn phóng
chiếu về đề tài lịch sử đáng nghiền ngẫm. Hay nói đúng hơn, lịch sử chỉ là một
cái cớ để tác giả có quyền vận dụng khả năng lập ngôn của mình về con người,
khi chính tác giả cũng đâu phải là người viết chính sử mà phải sao chép rập
khuôn.
Với một nhà văn tự nhận là ngoài lề như Nguyễn Viện, hai tác
phẩm truyện kịch này quả thật xuất hiện rất đúng thời điểm, để tiếng nói của
anh không đến nỗi phải chìm vào vô vọng. Nhất là với những ai đã từng đọc những
cuốn khác của Nguyễn Viện, theo tôi không thể không tìm đọc tác phẩm độc đáo
này.