Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 21 tháng 9, 2017

Tuyển tập Frankfurt (kỳ 2)

Phạm Kỳ Đăng dịch

Bài thơ "Ba hồ cảnh ở Hellbrunn" của Georg Trakl

Gerhard Stadelmeier (1)clip_image002

Ma quỉ ướt đầm trêu ngươi ngoi lên từ quá khứ: bài thơ này được miệt mài gọt giũa trong 5 năm trời, kể về cuộc chiến với đời của một nhà thơ trẻ, trong âm hưởng vượt qua sống còn. (FAZ)

Năm năm ròng, từ 1909 tới 1914, người đàn ông trẻ luôn luôn rời khỏi thành phố, như thể ông muốn tóm cái lâu đài và ngọn đồi, hồ, ao, những cây trắc bá và những tượng thần cùng với những màu sắc và thanh âm như một lớp da thắm sắc cuộc đời trùm lên thân thể vậy. Cho tới gần lúc chết, chiều chiều từ Salzburg ông thường đến đấy, – khi đó vừa mới 27 tuổi và sau trận đánh Grodek rùng rợn vượt quá sức chịu đựng, ông đã tự sát bằng cocain quá liều. Quả tình ông nghiện Hellbrunn nơi xưa kia vị Giám mục vương quyền Marcus Sitticus đã xây nên ngôi nhà lạc thú mang kiến trúc barock với những bồn phun nước, hang động, những lối đi bí hiểm, những hồ cảnh thanh tao, những bức tượng tráng lệ. Bỗng chốc từ những ống dẫn và bơm nước lẩn khuất, từ những cái miệng há ra vì sung sướng của thánh thần và tiên cá bất chợt nảy những cú hắt và dội vào người khách viếng thăm. Những con ma ướt nhèm trêu chọc. Hiện lên từ quá khứ.

Trong góc đẹp nhất, bên một bức tường ngoài phía ao cảnh chính điện, của tòa Nhạc lâu, ngày hôm nay trên một tấm bảng lớn, người ta có thể đọc truy tầm lại lớp da của âm thanh và màu sắc cấu tạo ra sao khiến người đàn ông trẻ, một thi sĩ lớn (có lẽ nhà thơ lớn nhất và giàu kết quả gây ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20) đã từng mơ tưởng tới. Và ra sao khi tấm da diệu kỳ này đàn hồi và trải rộng, cho tới khi nó vừa với cái Tôi trữ tình, ở đây nhưng mà cũng như ở trong tất cả các bài thơ của ông không bao giờ nói „Tôi“ cả. Và cũng hoàn toàn không nhất thiết phải làm điều đó. Bởi vì người đọc, bị quyến rũ ngay lập tức, cảm nhận nhà thi sĩ này là cái Tôi cuồng điên và nhẫn nhục nhất, cảm thông nhất và được tìm tới nhiều nhất trong thế kỷ của những đám người ích kỷ.

Bộ tranh tam bản của cách nhìn màu

Mới 22 tuổi đầu hoàn toàn đương trẻ, cậu con trai gia đình tư sản theo đạo Tin Lành vùng Salzburg, vốn học trò tú tài dang dở và dược sĩ học nghề, được Karl Kraus (2), Alfred Loos (3) và Oskar Kokoschka (4) khích lệ trở thành một thi sĩ, trong bản viết đầu tiên đã để cho một trong ba hồ cảnh ở Hellbrunn bừng lên trong ánh sáng ghê tởm của một Rimbaud (5) và Verlaine (6): „ Quanh những bông hoa lảng vảng bầy ruồi/ Quanh hoa nhợt trên làn sóng gối/ Đi đi! Đi đi! Bầu không khí cháy/ Trong thẳm sâu của thối rữa cháy bùng“. Và trên „mặt nước réo sôi hơi oi ả“, một địa điểm dành „cho hang ổ những con cóc đen kinh tởm“. Nhưng ngược lại ông xưng tụng hồ cảnh thứ hai trong âm hưởng tụng thi của Hölderlin (7): „ Cái xa vắng trở nên gần gụi! Ôi vầng dương, mi, người phấn chấn/Trời mây hoa và những con người/ Hãy hít thở đi bình an của Chúa Trời“. Và trong hồ thứ ba ông đã thấy sẵn „chiều sâu khôn lường“, phản chiếu trong „ ánh hồi quang của sóng/ Một gương mặt bí ẩn của con nhân sư“.

Trong bản viết mới đầu sự bộn bề của cảm nhận vẫn còn nằm trong những ngăn kéo đựng trích dẫn hơi lộn xộn. Địa danh chỉ ra cho thi sĩ thấy: không có gì là cái mặt dị dạng. Như ông cũng đã gọi hồn trong bài thơ „Giấc mơ của cái Ác“: „Một chỗ lịm đi tối tăm và ảm đạm/ Trên đảo ban chiều dậy lên tiếng thì thào/ Đọc ám hiệu của đàn chim di trú/ Những người hủi thối rữa đêm đêm, có thể/ Trong công viên anh em nhà run rẩy nhìn nhau “. Sau 5 năm không ngừng mài dũa, những bài thơ về Hellbrun Trakl giải độc vùng đất đó. Người thi sĩ chỉ có thể chịu đựng được trong cuồng say sắc mầu khát thèm cái chết và đớn đau từ suy tàn, thối rữa, đen (thường khi), lam (thường xuyên hơn cả), nâu (rất thường xuyên), lục (hầu như luôn luôn), bạc (nếu như rắn chạm vào đanh rắn) luôn thiêu đốt ông trong trí óc, con mắt và tâm hồn, bằng các chất chloroform, morphine, cocaine, rượu, thuốc phiện và veronal, thì ở đây ông đã từ sự nhẫn nhục cảm xúc làm nên một khúc nhạc chiều vĩ đại như một bộ tam bản của cách nhìn mầu. Một bản xô-nát ban chiều. Như một cuộc vật vã giành sự sống, trong những âm hưởng vượt qua sống còn.

Trong nhịp điệu trang trọng thanh thoát vang lên tiếng đàn dây kithara chói lói ánh bạc của thần Orpheus, của vị cha đẻ ra những thần thoại cổ xưa của mọi nhạc công „thả bước tới“ (một từ dùng yêu thích của Trakl) „ ở những bức tường đen của đêm tối“, nối vào đó cơn mưa giông mùa xuân trong gió đêm, kể cả sau bước xuống dòng đã kết vần vào đó trong bè chính rung lanh tanh khí lạnh đòi láy lại. Đó mới là khúc dạo đầu. Thế thì để làm chi những giọng bè trung mảnh mai và tối màu của „những người đàn bà từ lâu đã chết“, qua chiếc hồ thứ hai, cấp cho cái ngày tan biến trong màu xanh một điểm tựa hài hòa. Những gì vang âm, tuy từ rất xa đến tới đây từ những nấm mộ, ở tiếng thầm thào của những người đàn bà trong cây sậy, nơi con chích chòe đùa cợt với họ, lại có một truyện tiếu của hiện tại: có thể mường tượng ra được giữa chừng xen vào một khúc độc tấu sáo hoặc kèn basset horn (clarinet trầm) trong điệu thức Glissando (8) rền rĩ suốt chặng. Điều đó cho phép hiểu được là sự tiến hành. Trong khi không khí ban chiều phủ vòm lên hồ thứ ba cấp cho sự suy tàn, đang rỉ rắc thấm qua tường, một khúc apergio buồn bã ở màu xanh cung la trưởng êm đềm „khôn lường“ cộng với toàn bộ các nửa cung trắng và xanh lục. Điệp khúc đã hoàn tất như vậy. Cuối cùng chỉ còn ngự trị sự an bình sâu lắng, dẫu mang vẻ lừa mị, được kẹp chặt lại bằng những vần thơ sát sạt đến phát sợ, nơi chỉ „sóng“ trào qua „tường thành“ và „mạng che“ lại chảy tuôn chỉ vào trong „sóng“.

„Và thế đó nói lên nhiều điều, cái nói lên Trakl vậy“ – giễu nhại lại một câu thơ nổi tiếng của Hugo von Hoffmannsthal (9) mang tên “Ballade của cuộc sống bên ngoài“. Câu này ai cũng biết nguyên văn là “ Và thế đó nói lên nhiều điều, kẻ nói tới ban chiều vậy“. Dạo xưa nhà phê bình sân khấu, nhà tiểu thuyết gia, nhà viết bỉnh báo và truyện Friedrich Torberg (10) tương truyền đã phát hiện ra trong điểm sáng của nhận thức: Nơi đâu Hofmannsthal ca tụng cuộc đời, thi ca của Trakl sống ở đó. Và chết bên trong và sống với nó. Nhưng ngoài kia ở vùng Hellbrunn đã chỉ một lần cuộc đời và thơ ca của Georg Trakl trở thành một âm nhạc tuyệt vời duy nhất.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Nguồn Frankfurter Anthologie - Hợp tuyển Frankfurt

Ba hồ cảnh ở Hellbrunn

Georg Trakl (1887 - 1914)

Thả bước tới bên bức tường đen tối
Của ban đêm, đàn lia láy tiếp vang âm
Của Orpheus trong ao nước tối tăm
Nhưng mùa xuân nhỏ xuống trong giông tố
Từ cành nhánh trong cơn giông hoang dã
Của gió đêm, đàn lia láy tiếp vang âm
Của Orpheus trong ao nước tối tăm
Chết về cõi những bức tường xanh lá

Lâu đài và ngọn đồi xa rực chiếu
Tiếng những đàn bà - ấy những bức dệt thêu
Từ lâu đã chết, màu tối và mảnh mai
Trên mặt gương của tiên nữ, màu trắng -
Than vãn số kiếp của mình trôi lãng
Và rũa tan trong xanh lá ngày đi
Tiếng thầm thào trong ống sậy và bay về -
Một con chích chòe giỡn đùa với họ.

Giòng nước lấp loáng màu lam lục
Và những cây trắc bá thở hít êm đềm
Và sự đau buồn của chúng khôn lường
Chảy trôi vào trời xanh đêm tối
Những thần biển nhô lên từ lớp sóng
Sự suy tàn rỉ rắc thấm tường thành
Trăng che mặt trong tấm mạng lục xanh
Và chậm rãi nhởn nhơ trên sóng.

© PKĐ dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Die drei Teiche in Hellbrunn

Georg Trakl (1887 - 1914)

Hinwandelnd an den schwarzen Mauern
Des Abends, silbern tönt die Leier
Des Orpheus fort im dunklen Weiher
Der Frühling aber tropft in Schauern
Aus dem Gezweig in wilden Schauern
Des Nachtwinds silbern tönt die Leier
Des Orpheus fort im dunklen Weiher
Hinsterbend an ergrünten Mauern.

Ferne leuchten Schloß und Hügel.
Stimmen von Frauen, die längst verstarben
Weben zärtlich und dunkelfarben
Über dem weißen nymphischen Spiegel.
Klagen ihr vergänglich Geschicke
Und der Tag zerfließt im Grünen
Flüstern im Rohr und schweben zurücke –
Eine Drossel scherzt mit ihnen.

Die Wasser schimmern grünlichblau
Und ruhig atmen die Zypressen
Und ihre Schwermut unermessen
Fließt über in das Abendblau.
Tritonen tauchen aus der Flut,
Verfall durchrieselt das Gemäuer
Der Mond hüllt sich in grüne Schleier
Und wandelt langsam auf der Flut.

Bản tiếng Anh tham khảo

Georg Trakl (1887 - 1914)

The Three Ponds in Hellbrunn
Wandering along the black walls
Of evening, silverly the lyre
Of Orpheus sounds forth in the dark pond
But spring drips in showers
From the branches in wild showers
Of the night wind silverly the lyre
Of Orpheus sounds forth in the dark pond
Dying away at greening walls.

Far away palace and hill shine.
Voices of women, who long ago passed away,
Weave tenderly and darkly colored
Over the white nymphish mirror.
Lament their fleeting fate
And the day dissolves in the green
Whispers in the reeds and hover back -
A thrush frolics with them.

The waters shimmer greenish-blue
And calmly the cypresses breathe
And their gloom immeasurable
Flows over into the evening-blue.
Tritons emerge from the flood,
Decay trickles through the walls
The moon wraps itself in green veils
And wanders slowly on the flood.

Về tác giả: Georg Trakl (1887 - 1914): Người Áo, nhà thơ nổi tiếng của Chủ nghĩa Biểu hiện Đức, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Tượng trưng, được coi là nhà thơ viết bằng tiếng Đức xuất sắc nhất cùng với Rainer Maria Rilke ở đầu thế kỷ 20.

Tòan bộ thi phẩm của ông mang dấu ấn của hòai cảm, u sầu và hướng tìm Thiên Chúa. Có thể kể Cái chết, Suy đồi và sự Suy tàn của Tây Phương như những hàm ý chính ở thơ trữ tình sâu xa của Georg Trakl đầy những biểu tượng và ẩn dụ.

Chú thích của người dịch:

(1) Gerhard Stadelmeier (sinh năm 1950): Nhà báo, nhà phê bình sân khấu, viết feuilleton cho tờ FAZ (Frankfurter Allgemeine Zeitung).
(2) Karl Kraus (1874-1936): Nhà văn Áo, đồng thời là nhà thơ, nhà trước tác, cây bút châm biếm, cách ngôn, và cũng nổi tiếng như vậy là nhà phê bình văn học.
(3) Alfred Loos (1870-1933): Kiến trúc sư, nhà báo người Áo.
(4) Oskar Kokoschka (1886-1980): Họa sĩ, nhà văn Áo của chủ nghĩa Biểu hiện và phái Hiện đại Vienna.
(5) Jean Nicolas Arthur Rimbaud (1854-1891): Thi hào Pháp, một trong những nhà thơ gây ảnh hưởng lớn nhất.
(6) Paul Marie Verlaine (1844-1896): Nhà thơ lớn người Pháp phái Tượng trưng.
(7) Johann Christian Friedrich Hölderlin (1770-1843): Một trong những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương Đức.
(8) Lối hát lướt, Glissando là một chuỗi note liên tiếp cách nhau nữa note trên một làn hơi.
(9) Hugo von Hoffmannsthal (1874-1929): Nhà thơ, nhà văn, kịch tác gia người Áo.
(10) Friedrich Torberg (1908-1979): Nhà văn, nhà báo nhà viết kịch bản, tự cho mình là ngưới Áo gốc Tiệp và người Do thái.

Con voi trắng

Ulrich Weinzierl

Những ai biết một chút mà chẳng nhiều thêm hơn cái tên Rilke, ngoài tiểu thuyết „Cornet“ ít nhất họ cũng biết tới bài thơ „Con báo“, „Ngày thu“ và cả bài „Giàn Kéo Quân“ nữa. Không nghi ngờ gì nữa, bài thơ này là bài đầu tầu, vâng, một „bài tủ“, được các nhà làm hợp tuyển đánh giá cao không hề kém các nhà viết tiểu sử. Hugo von Hofmannstahl (1) thậm chí còn xếp bài thơ vào mục các bài thơ „do nổi tiếng gần như trĩu nặng chút ít“, „gần như quá là điệu nghệ“. Bản thân thi sĩ đọc bài thơ này thường xuyên, với sự thích thú và gặt hái nhiều kết quả. Năm 1906 viết ra giấy, bài thơ„Giàn Kéo Quân“ đã ra đời cùng „Các bài thơ mới“ nhờ cuộc gặp gỡ với Rodin (2) và phong cách Hiện đại của Pháp đã tạo ra một bước ngoặt trong sự nghiệp sáng tác và thi ca của Rilke: đi tới tường tận của sự quan sát chính xác, hay như Stefan Zweig (3) hào hùng ưa thích diễn đạt: „sự toàn thắng của một ngôn ngữ tối hậu đã hoàn toàn trở thành điêu khắc“.

Tuy nhiên trong lần in đầu và cho cả tới sau khi tác giả mất, người ta phải bỏ mất một điều nhỏ nhặt trong ấn hình: Bây giờ, dựa theo ấn bản „Tác phẩm toàn tập“ của Ernst Zinns (4), thay vào ba dấu chấm mở ra màn chung kết của trí phóng tưởng, trước kia chỉ có một dấu chấm hết. Có phải chỉ là một điều vặt vãnh thôi không? Dẫu sao thì văn bản „Vũ nữ Tây Ban Nha“ ra đời kế tiếp, xuất hiện ước chừng đồng thời có thể có giá trị như khúc tụng ca vẻ gợi cảm bốc lửa. Và cả dòng thơ nổi tiếng nhất luôn quay lại và đúng là thế, không thể nào quên „ Và thế rồi sau, lúc nào đó một con voi trắng“ vang lên như vậy không hề khác, không phải là sự tình cờ. Dẫu sao Rilke đã do dự giữa hai biến thể, một biến thể còn không thì trùng khớp bằng lòng với điệp khúc co lại „ Và thế rồi sau, lúc nào đó...“ Tôi nghĩ cả hai cùng liên quan với nhau – trí tưởng tượng thơ ca kết cục là con voi trắng vinh quang và ba dấu chấm.

Nhưng điều gì đã làm nên tác động quyến rũ của „Giàn Kéo Quân“ vậy? Một mặt, chắc chắn do hình thức: Trong vũ điệu của những câu thơ jambơ năm chân, cùng với những thứ được miêu tả, chúng ta xoay đi trong vòng tròn. Sự nhiệm màu của phẩm giá đầy nhạc tính, của nhịp và vần thơ khiến người quan sát được một kẻ quan sát, chính là kẻ loăng quăng ghé lại đứng bên lề, với mãnh lực dịu dàng đưa vào tâm điểm sự kiện. Không một ai thoát khỏi vận động. Đồng thời ở đây chúng ta lên đường hành trình vào xứ sở của con trẻ. Mặc dù nó „trì hoãn lâu, trước khi chìm đắm“ thì lãnh địa của nhớ thương vẻ như không vướng bận gì bất kỳ một sự đa cảm và sướt mướt. Vô tình công viên Jardin du Luxembourg biến thành thiên đường đánh mất, nơi nghiệm trải nguyên thủy được khơi gợi. Bởi ở đó là những cô gái cưỡi trên lưng ngựa. Hồ như vừa thoát ra khỏi nghi lễ trinh trắng, những ánh mắt buông mơ màng của các cô bé bắt gặp ánh mắt của người lớn đứng ngoài và như thế là ánh mắt của chúng ta: Và đôi khi một nụ cười đáp lại. Đòi hỏi giới tính đang thức dậy trong tuổi dậy thì chắc rằng còn chưa là sự hứa hẹn khoái cảm của một Lolita, mà thế đó là dự cảm mơ màng pha một thoáng điệu đàng mới lớn.

Trong đám các con thú sặc sỡ, „và thế rồi sau vào lúc nào đó“ nổi bật con voi trắng xuất hiện nhảy nhịp tách ra khỏi hàng. Tính khí bạch tạng thất thường của tự nhiên, nó hoàn hảo là một con thú thần thoại. Xưa thần Indira ưa cưỡi trên lưng nó và nó đóng vai trò trong huyền thoại về Đức Phật. Trước khi sinh ra Ngài, Maya, mẹ của Đức Phật đã trông thấy một con voi trắng xâm phạm vào lòng bà. Có nói quá không, nếu như ta phỏng đoán ở mô-típ chủ đạo của Rilke một âm hưởng gợi dục ở tầng sâu? Hầu như không: Những người hoài nghi nên nhớ rằng, trong tập „Những bài thơ mới“, sát trước bài „Giàn Kéo Quân“ lại chính là bài sonnet „Đức Phật“. Chính thế trong nghệ thuật đoán định vì vậy ẩn chứa ma lực của bài thơ, nền đất hai lớp của một sự dịu dàng rất đặc biệt này tên là gợi cảm.

©® Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức
Nguồn: Một trăm bài thơ của thế kỷ, kèm bình giảng, được tuyển lựa bởi Marcel Reich-Ranicki, Nhà xuất bản Insel Verlag, 2000

Giàn Kéo Quân

Jardin du Luxembourg

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

Dưới vòm mái đổ vệt dài trong một thoáng
Xoay vòng bầy ngựa sặc sỡ sắc màu
Tất cả chúng đến từ đất nước, dài lâu
Trì nán lại trước khi chìm đắm
Ấy một số bên cỗ xe căng thẳng
Trông vẻ mặt chúng mà thế lộ vẻ can trường
Một con sư tử đỏ hung dữ cùng chúng đi trên đường
Và thế rồi sau, lúc nào đó, một con voi trắng

Cứ như trong rừng, có cả một con tuần lộc
Có điều nó đeo một bộ yên
Một cô gái nhỏ mặc đồ xanh, nai nịt ngồi trên
Và một cậu bé vận đồ trắng cưỡi trên lưng sư tử
Và cậu giữ chặt lấy người bằng bàn tay nóng, bé nhỏ
Khi con mãnh sư lè lưỡi, nhe nanh
Và thế rồi sau, lúc nào đó, một con voi trắng

Cả các cô gái trên lưng ngựa lướt qua, tươi sáng
Suýt bật lên khỏi cú ngựa lồng
Giữa đà nhào nhún nhẩy trên không
Ngước mắt, tới nơi nào, liếc sang đây, nhìn tới
Và thế rồi sau, lúc nào đó, một con voi trắng

Và chóng vánh, hối hả và kết lắng
Và quay và xoay thôi không mục đích nào
Màu đỏ, màu xanh và xám tạt qua ào ào
Một diện mạo hồ như chưa bắt đầu, bé nhỏ
Và thư thoảng hé nụ cười từ đó
Ấm áp, chói chang và phung phí hiến dâng
Cho trò chơi nín thở, mù câm...

©Phạm Kỳ Đăng dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Das Karussell

Jardin du Luxembourg

Mit einem Dach und seinem Schatten dreht
sich eine kleine Weile der Bestand
von bunten Pferden, alle aus dem Land,
das lange zögert, eh es untergeht.
Zwar manche sind an Wagen angespannt,
doch alle haben Mut in ihren Mienen;
ein böser roter Löwe geht mit ihnen
und dann und wann ein weißer Elefant.

Sogar ein Hirsch ist da, ganz wie im Wald,
nur dass er einen Sattel trägt und drüber
ein kleines blaues Mädchen aufgeschnallt.

Und auf dem Löwen reitet weiß ein Junge
und hält sich mit der kleinen heißen Hand
dieweil der Löwe Zähne zeigt und Zunge.

Und dann und wann ein weißer Elefant.

Und auf den Pferden kommen sie vorüber,
auch Mädchen, helle, diesem Pferdesprunge
fast schon entwachsen; mitten in dem Schwunge
schauen sie auf, irgendwohin, herüber –.

Und dann und wann ein weißer Elefant.

Und das geht hin und eilt sich, dass es endet,
und kreist und dreht sich nur und hat kein Ziel.
Ein Rot, ein Grün, ein Grau vorbeigesendet,
ein kleines kaum begonnenes Profil –.
Und manchesmal ein Lächeln, hergewendet,
ein seliges, das blendet und verschwendet
an dieses atemlose blinde Spiel ...

Một bản tiếng Anh (tham khảo)

The Carourel

Rainer Maria Rilke (1875-1926)

A little while both roof and shadow turn
with the quick steeds, whose motley coats enchant,
all hailing from the land that knows no want,
whose distant end no childlike eyes discern.
And every champing horse is arrogant,
though some are hitched to coaches, it is true;
a red and wicked lion bounds there too,
and now and then a huge, white elephant.

Even a wild stag flies along the track,
as in the wood, but saddle he must wear,
and a small girl in blue perched on his back.

And on the ruddy lion rides a young
blonde boy, with small hot hand and quickened pant,
the while the lion shows his teeth and tongue.

And now and then a huge, white elephant.

And round and round on their swift steeds they tear,
and clear-eyed girls, who are quite grown, among
the other children ride embarrassed, swung
in forward flight, looking now here, now there—

And now and then a huge, white elephant.

And it goes on and hurries to a close,
circling and whirling with no end or aim.
A red, a green, a grey rides forth, and goes,
A small vague profile, fading as it came.
And sometimes a soft glance abruptly glows,
a dazzling spendthrift smile some child bestows
briefly upon this blind and breathless game.

Chú thích của người dịch:

Rainer Maria Rilke (1875-1926): Nhà thơ, nhà văn, nhà tiểu luận và dịch giả, ông thuộc về những thi sĩ quan trọng nhất của văn chương tiếng Đức.

Ulrich Weinzierl (sinh năm 1954): Nhà báo người Áo, giám đốc nhà xuất bản, cây bút phê bình văn học của Frankfurter Allgemeine Zeitung.

(1) Hugo von Hofmannstahl (1874-1929): Nhà thơ, nhà văn, kịch tác gia người Áo, đại diện quan trọng của Phong cách Hiện đại Vienna.
(2) Auguste Rodin (1840-1917): Nhà tạc tượng và họa sĩ, vị thủy tổ của nền điêu khắc hiện đại. Nhà thơ Rainer Maria Rilke đã từng xin làm thư ký cho ông vài năm.
(3) Stefan Zweig (1881-1942): Nhà văn, nhà thơ người Áo.
(4) Ernst Zinns (1910-1990): Nhà ngữ văn nghiên cứu văn học cổ điển Đức