Danh ngôn

Trong mọi cộng đồng, chúng ta cần một nhóm thiên thần gây rối.

We need, in every community, a group of angelic troublemakers.

(Bayard Rustin – trích bài phát biểu tại New York City 1963)

Trong mọi trường hợp, chắc chắn rằng sự thiếu hiểu biết, đi kèm với quyền lực, là kẻ thù tàn bạo nhất có thể có của công lý.

It is certain, in any case, that ignorance, allied with power, is the most ferocious enemy justice can have.

(James Baldwin - No Name in the Street 1972)

Các cuộc cách mạng và các cá nhân có thể bị giết hại, nhưng bạn không thể giết chết các ý tưởng.

While revolutionaries and individuals can be murdered, you cannot kill ideas.

(Thomas Sankara, một tuần trước khi bị ám sát, 1987)

Không có cảm giác nào cô đơn hơn việc bị chính đất nước mình trục xuất.

There's not a more lonely feeling than to be banished by my own country.

(Kiyo Sato – Kiyo’s Story 2009)

Ban Biên tập

Địa chỉ liên lạc:

1. Thơ

tho.vanviet.vd@gmail.com

2. Văn

vanviet.van14@gmail.com

3. Nghiên cứu Phê Bình

vanviet.ncpb@gmail.com

4. Vấn đề hôm nay

vanviet.vdhn1@gmail.com

5. Thư bạn đọc

vanviet.tbd14@gmail.com

6. Tư liệu

vanviet.tulieu@gmail.com

7. Văn học Miền Nam 54-75

vanhocmiennam5475@gmail.com

Tra cứu theo tên tác giả

Thứ Năm, 5 tháng 3, 2015

VĂN HỌC MIỀN NAM 54-75 (77): HOÀI NIỆM VŨ HOÀNG CHƯƠNG

(1915 – 1976)

ĐẶNG TIẾN

V__Ho…ng_Ch__ngNgày 6/9 dương lịch là ngày giỗ Vũ Hoàng Chương, mất tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 1976; sau mấy tháng bị chính quyền bắt giam vào khám Chí Hoà anh bị trọng bệnh, đưa về nhà một thời gian ngắn thì qua đời, vì ho suyễn, thọ 62 tuổi.

Vũ Hoàng Chương sinh tại thành phố Nam Định năm 1915 (giấy tờ ghi 1916) trong một gia đình khoa bảng giàu có; tác giả của khoảng hai mươi tác phẩm, chủ yếu là thơ, rồi đến kịch thơ, hồi ký, bài nói chuyện. Vũ Hoàng Chương là nhà thơ lớn của đất nước, bắt đầu từ phong trào Thơ Mới, với các tập Thơ Say (1940), Mây (1943), qua những truân chuyên của dân tộc với Thơ Lửa (1948), Hoa Đăng (1959), Lửa Từ Bi (1963), và những biến chuyển trong thi ca hiện đại. Vũ Hoàng Chương là một tác gia lớn lao và quan trọng trong lịch sử văn học nước nhà, chiếm một địa vị riêng biệt trong các trào lưu thi ca. Giữa những trầm luân của đất nước, tác phẩm của anh chưa được tìm hiểu toàn bộ và đánh giá đúng mức, ở miền Bắc cũng như miền Nam, trước 1975, và trong nước cũng như ngoài nước những năm gần đây.

Trong nước, từ chính sách đổi mới, 1986, đã có lối nhìn thoáng rộng hơn đối với phong trào Thơ Mới 1932-1945 và Vũ Hoàng Chương, ở một chừng mực giới hạn, cũng được đọc lại một cách công bình hơn. Mới đây (1996) một sinh viên đại học TPHCM đã trình tiểu luận tốt nghiệp về Vũ Hoàng Chương và giáo sư phản biện Hoàng Như Mai, nhà phê bình văn học (sinh năm 1917) đã phê  “ viết về nhà thơ Vũ Hoàng Chương không phải dễ, người viết vừa phải có trình độ uyên bác nào đó, vừa phải có năng khiếu nghệ thuật. Trên thực tế, khen thơ Vũ Hoàng Chương thì có đông đảo độc giả và các nhà nghiên cứu phê bình, nhưng trực tiếp viết ra những lời đánh giá thì lại rất ít ai dám viết. Trên văn đàn, những bài, sách nghiên cứu, phê bình thơ Vũ Hoàng Chương có bao nhiêu đâu. Sinh viên viết được bài tiểu luận tốt nghiệp như thế này là đáng biểu dương. Tôi đánh giá như vậy là với tư cách một người yêu quý thơ Vũ Hoàng Chương, và là người bạn thân của nhà thơ” (25/6/1996).

Chúng tôi ghi nhận lời phê, viết tay trên luận án, vì nhiều lý do:

· Dù bị vùi dập, Vũ Hoàng Chương vẫn có người yêu quí và ngay thẳng nói lên niềm yêu quý ấy.

· Ngưòi ấy có thể là một trí thức cao tuổi, là Hoàng Như Mai, nhưng còn là những sinh viên trẻ tuổi.

· Đoạn văn phản ánh đúng tình hình nghiên cứu về Vũ Hoàng Chương, với những khó khăn khách quan về nhiều mặt.

Nhưng cũng có người tâm huyết vượt qua những định kiến như Hoàng Thiệu Khang đã viết: “cuộc nội sinh hoá văn học phương Tây, để có thể sản xuất ra một chất phương Đông đậm đà, phải qua tay Vũ Hoàng Chương, Huy Cận, Đoàn phú Tứ, Thâm Tâm... và cả Xuân Thu Nhã Tập”1. Và Đỗ Đức Hiểu (tú tài 1944 tại Hà Nội) trong sách Đổi Mới Phê Bình Văn Học đã phân tích ảnh hưởng Baudelaire trong thơ Vũ Hoàng Chương; hoặc Đỗ Lai Thuý (sinh 1948) đã có những trang về Vũ Hoàng Chương đào nguyên lạc lối2 thật hay, chủ yếu giải thích chất say như một chìa khoá giải mã đi vào thi giới Vũ Hoàng Chương, như một yếu tố của mỹ học và thi pháp; và tính cách suy đồi trong nghĩa văn học có mầm mống cách mạng và hiện đại. Dĩ nhiên cái nhìn theo phương pháp luận luôn luôn mang tính cách cục bộ, và tiếc rằng Đỗ Lai Thuý chưa đọc nhiều thơ Vũ Hoàng Chương. Tuy vậy, những bài viết mới mẻ như thế còn hiếm và đáng biểu dương.

Đồng thời, một số tác phẩm của Vũ Hoàng Chương trước 1945 đã được in lại3. Những tác phẩm về sau, dường như chỉ in lại hồi ký Ta đã làm chi đời Ta (nxb Hội nhà Văn 1993 TPHCM).

Nhưng nói chung những thành kiến còn đè nặng trên sự nghiệp văn học của Vũ Hoàng Chương, có thể từ bài viết của Chế Lan Viên (tháng 4/1960) phê phán tập thơ Hoa Đăng, bất công và độc ác4. Có thể nói, bài này, ở chừng mực nào đó – tôi cân nhắc – ở chừng mực nào đó, đã đưa đến thảm kịch Vũ Hoàng Chương năm 1976. Bài của Xuân Diệu ân cần với Vũ Hoàng Chương, trong mục Tiếng Thơ trên báo Văn Nghệ số 6/1948 không thấy in lại trong sách (NXB Văn Nghệ, 1954). Thỉnh thoảng lắm mới có người nhắc đến tình cũ nghĩa xưa như Tô Hoài trong Tự Truyện, hay mới đây trong Chiều Chiều5. Còn lại là những phê phán gay gắt kể cả Lê Đình Kỵ, là người tương đối cởi mở với thơ tiền chiến, cũng đánh giá Vũ Hoàng Chương là “bi quan, bế tắc, buông thả, tự huỷ, truỵ lạc”...6. Ở đây chúng tôi không nhắc tới Phan Cự Đệ vì sách Phong trào Thơ Mới viết đã lâu (1966), và từ ấy đến nay ông ta cũng có tiến bộ. Chỉ ghi nhận những lời mới đây (2/1989) của Hà Minh Đức, đương kim viện trưởng viện Văn Học, xem Vũ Hoàng Chương là “cây bút có tài năng nhưng nằm trong dòng nước đục (...) chẳng có gì để nói thêm về những câu thơ như một con thuyền bập bềnh trôi trên dòng nước đục”7. Hà Minh Đức chỉ muốn so sánh thơ Vũ Hoàng Chương những năm 1940, 1943 với những nguồn thơ khác, nhưng câu chữ vẫn không hợp với một đất nước đang hô hào đổi mới, mở cửa, giao lưu. Dù sao, “ đục trong thân cũng là thân”, cụ Nguyễn Du bảo vậy, và Tết Mậu Thân, 1968, Vũ Hoàng Chương cũng có bài thơ nhan đề như vậy.

Và dù sao, thời gian cũng sẽ gạn đục khơi trong.

Biết ai là đục biết ai trong . . .

Năm 1969, Vũ Hoàng Chương lên 55 tuổi, tự hào mình thọ hơn Khổng Minh... 1 tuổi, có bài thơ:

Chữ thọ vừa ăn đứt Ngoạ Long
Bến nằm dư biết đục hay trong ...
(...) Chỉ thương kiếp đá ai bày trận
Để ngấn vàng gieo chợt rối vòng ...

Một ánh trăng giữa bát Trận Đồ. Trong cảnh đá chạy cát bay, đôi tiếng thị phi, hoặc lời ca tụng, có nghĩa lý gì?

Trước đây, nhà xuất bản An Tiêm, Paris, trong dự án dài hạn, muốn ấn hành một Tuyển Tập Vũ Hoàng Chương, có thể nhích lên Toàn Tập, yêu cầu tôi sưu tầm, biên tập và giới thiệu, với sự thoả thuận của chị Vũ Hoàng Chương. Nay anh Thanh Tuệ chủ trương An Tiêm đã qua đời... Nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội, thời giám đốc Nguyễn Văn Lưu có lúc cũng đánh tiếng. Nhưng việc không đến đâu, lý do, khách quan và chủ quan, thì nhiều.

Chút nghĩa cũ càng, nhân ngày giỗ anh Chương, mới có bài này để cập nhật hoá hoàn cảnh văn học của Vũ Hoàng Chương trong hiện tình đất nước.

Nén hương lòng. Xa xôi và cách trở. Không phải để nghị luận hay tranh luận với ai.

Paris, nhân ngày giỗ Vũ Hoàng Chương 6/9/1999, cập nhât 2012.

Chú thích:

1 Hoàng Thiệu Khang, Cảm nhận và suy tưởng, nxb Văn Học, Hà Nội, 1994, trang 20.

2 Đỗ Lai Thuý, Con mắt thơ, nxb Lao Động, Hà Nội, 1992, tái bản nhiều lần

3 Lại Nguyên Ân, trên Tạp Chí Văn Học, số 2.1998, cho biết nxb Văn Học Hà Nội, 1991, có ra bộ sách 12 tập Thơ Mới đầu tiên trong đó có Mây của VHC. 1995 ra bộ sách Thơ Mới Tác Gia và Tác Phẩm gồm có 15 tập với 15 tác giả, có VHC.

Nxb Hội Nhà Văn, TPHCM 1992, có tái bản Mây của VHC trong 1 bộ gồm nhiều thi tập.

4 Chế Lan Viên, Phê Bình Văn Học, nxb Văn Học Hà Nội, 1962, trang 86-98.

5 Tô Hoài, Tự Truyện, 1985, trang 263. Cát Bụi Chân Ai, 1992, trang 153 . Chiều Chiều, 1999, trang 21 và 25

6 Lê Đình Kỵ, Thơ Mới những bước thăng trằm, nxb TPHCM, 1989, trang 83 và 122.

7 Hà Minh Đức, Khảo Luận Văn Chương, nxb KHXH, Hà Nội, 1997, trang 14 và 40.

Nguồn: www.diendan.org

THAM KHẢO (WIKIPEDIA):

Vũ Hoàng Chương (5 tháng 5 1916 – 6 tháng 9 1976) là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Ông sinh tại Nam Định, nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là huyện Mỹ Hào tỉnhHưng Yên.

Văn phong của ông được cho là sang trọng, có dư vị hoài cổ, giàu chất nhạc, với nhiều sắc thái Đông phương.

Tiểu sử

Thuở nhỏ, ông học chữ Hán ở nhà rồi lên học tiểu học tại Nam Định. Năm 1931 ông nhập học trường Albert SarrautHà Nội, đỗ Tú tài năm 1937.

Năm 1938 ông vào Trường Luật nhưng chỉ được một năm thì bỏ đi làm Phó Kiểm soát Sở Hỏa xa Đông Dương, phụ trách đoạn đường Vinh - Na Sầm.

Năm 1941, ông bỏ Sở hỏa xa đi học Cử nhân toán tại Hà Nội, rồi lại bỏ dở để đi dạy ở Hải Phòng. Trong suốt thời gian này, ông không ngừng sáng tác thơkịch. Sau đó trở về Hà Nội lập "Ban kịch Hà Nội" cùng Chu NgọcNguyễn Bính. Năm 1942 đoàn kịch công diễn vở kịch thơ Vân muội tại Nhà Hát Lớn. Cũng năm đó ông gặp Đinh Thục Oanh, chị ruột nhà thơ Đinh Hùng và hai người thành hôn năm 1944.

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông về Nam Định và cho diễn vở kịch thơ Lên đường của Hoàng Cầm. Kháng chiến toàn quốc nổ ra, Vũ Hoàng Chương tản cư cùng gia đình về Thái Bình, làm nghề dạy học. Đến 1950, gặp lúc quân Pháp càn đến ruồng bắt cả nhà, ông bỏ miền quê, hồi cư về Hà Nội nơi dạy toán rồi chuyển sang dạy văn và làm nghề này cho đến 1975.

Năm 1954, Vũ Hoàng Chương di cư vào Nam, tiếp tục dạy học và sáng tác ở Sài Gòn.

Năm 1959 ông đoạt "Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc" của Việt Nam Cộng hòa với tập thơ Hoa đăng. Trong năm này ông sang Âu châu tham dự Hội nghị Thi ca Quốc tế tại Bỉ.

Năm 1964 ông tham dự Hội nghị Văn bút Á châu họp tại Bangkok; năm sau, 1965 lại tham dự Hội nghị Văn bút Quốc tế họp tại Bled, Nam Tư. Năm 1967, ông lại tham dự Hội nghị Văn bút Quốc tế họp tại Abidjan, thủ đô Côte d'Ivoire.

Thời gian 1969-1973 Vũ Hoàng Chương là Chủ tịch Trung tâm Văn bút Việt Nam. Năm 1972 ông đoạt giải thưởng văn chương toàn quốc lần thứ hai. Ông còn được vinh danh là "Thi bá" Việt Nam.

Ngày 13 tháng 4 năm 1976, bị Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam bắt giam tại khám Chí Hòa. Bệnh nặng đưa về nhà được 5 ngày thì ông mất ngày 6 tháng 9 năm 1976 tại Sài Gòn.

Các tác phẩm tiêu biểu

Các tập thơ:

· Thơ say (1940)

· Mây (1943)

· Thơ lửa (cùng Đoàn Văn Cừ, 1948)

· Rừng phong (1954)

· Hoa đăng (1959)

· Tâm sự kẻ sang Tần (1961)

· Lửa từ bi (1963)

· Ta đợi em từ 30 năm (1970)

· Đời vắng em rồi say với ai (1971)

· Chúng ta mất hết chỉ còn nhau (1973)...

Kịch thơ:

· Trương Chi (1944)

· Vân muội (1944)

· Hồng diệp (1944)